Tóm tắt: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Điện Biên là vấn đề cấp thiết nhằm tạo đà cho phát triển du lịch của tỉnh. Nghiên cứu này sử dụng cách tiếp cận liên ngành và các phân tích hệ thống để xác định các tiềm năng và đề xuất giải pháp đa chiều trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa để phát triển du lịch ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc tích hợp bảo tồn văn hóa vào phát triển du lịch không chỉ giúp gìn giữ bản sắc mà còn là một đòn bẩy để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Thành công của việc phát triển đòi hỏi việc áp dụng đồng bộ các giải pháp từ chính sách tới thực hành và quảng bá nhằm phát huy hiệu quả các giá trị văn hóa trong phát triển du lịch.
Từ khóa: văn hóa, quảng bá, dân tộc thiểu số, du lịch, Điện Biên.
Abstract: The preservation and promotion of cultural values, particularly those of ethnic minorities, in conjunction with sustainable tourism development in Dien Bien province is an urgent issue essential for fostering the province’s tourism growth. This study employs an interdisciplinary approach and systematic analysis to identify potentials and propose multidimensional solutions for preserving and promoting cultural values to support tourism development in ethnic minority areas of Dien Bien. The findings indicate that integrating cultural preservation into tourism development not only safeguards cultural identity but also serves as a catalyst for local economic growth. Successful development requires the synchronized implementation of policies, practices, and promotional efforts to effectively leverage cultural values in tourism development.
Keywords: culture, promotion, ethnic minorities, tourism, Dien Bien.
Các Cô gái Thái múa hát trong Lễ Kin Pang Then - Ảnh: dulichdienbien.vn
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của ngành Du lịch cũng đặt ra nhiều thách thức đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên dải đất hình chữ S. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc sắc, tạo nên sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường có tiềm năng lớn về du lịch văn hóa, với những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, và những phong tục tập quán truyền thống hấp dẫn. Tuy nhiên, việc phát triển du lịch ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất là nguy cơ thương mại hóa và biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống, khi các phong tục tập quán, lễ hội và nghề thủ công truyền thống bị khai thác quá mức để phục vụ nhu cầu của khách du lịch. Bên cạnh đó, sự thiếu ý thức về bảo tồn di sản văn hóa, sự nghèo nàn về cơ sở hạ tầng du lịch và nguồn nhân lực du lịch chưa được đào tạo bài bản cũng là những rào cản lớn đối với sự phát triển du lịch bền vững ở các vùng này.
Điện Biên là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam, nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao, Khơ Mú, Hà Nhì... Tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch cộng đồng và du lịch sinh thái, dựa trên những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo của các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, việc phát triển du lịch ở Điện Biên cũng đối mặt với những thách thức tương tự như các vùng đồng bào dân tộc thiểu số khác trên cả nước.
Do đó, việc nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong phát triển du lịch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ những tiềm năng, thực trạng và thách thức trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch ở Điện Biên, đồng thời đề xuất những định hướng phù hợp, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững của tỉnh.
2. Kết quả nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp, phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp về văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã đạt được, bài viết tập trung phân tích tiềm năng giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên và đề xuất những giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên theo hướng hiệu quả và bền vững.
Khái quát về những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên
Tỉnh Điện Biên có 19 dân tộc, bao gồm Mông (38,1%), Thái (35,7%), Kinh (17,4%), Khơ Mú (3,3%), còn lại các dân tộc khác (5,5%) như Dao, Hà Nhì, Phù Lá, Kháng, Xinh Mun, Si La, Cống, Hoa...; 30 di tích văn hóa vật thể đã được xếp hạng (1 di tích quốc gia đặc biệt; 14 di tích quốc gia; 15 di tích cấp tỉnh), 2 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Di sản nghệ thuật xòe Thái và Di sản thực hành then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam) và 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là lợi thế quan trọng mà hiếm địa phương nào có được.
Di sản văn hóa vật thể của Điện Biên gắn với điều kiện địa lý, tự nhiên, với đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân. Đó là các thửa ruộng bậc thang gắn với hệ thống mương - phai - lái - lín (hệ thống tưới tiêu nổi tiếng của dân tộc Thái và các dân tộc vùng Tây Bắc); không gian văn hóa của các bản làng nằm ở thung lũng ven núi, những mái nhà sàn cao ráo, thoáng mát được trang trí bởi khau cút (biểu tượng trên nóc nhà đầu hồi cửa chính của người dân tộc Thái) đa dạng về kiểu dáng. Ở khu vực rẻo cao của các huyện Điện Biên Đông, Tuần Giáo (trước đây), người Mông khéo léo dựng các nếp nhà trình tường có kiến trúc độc đáo bằng đất, phù hợp với điều kiện khí hậu vùng rẻo cao. Ở vùng biên giới giáp Lào, các bản của người Khơ mú với các nếp nhà nằm sát cạnh nhau. Mỗi nếp nhà, mỗi phong tục đã góp phần làm nên một Điện Biên giàu bản sắc văn hóa các tộc người.
Điện Biên cũng có một hệ thống di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, như các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, tập quán, lễ hội, trò chơi dân gian… thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của cư dân vùng núi - rừng, biên cương. Trong đó, nhiều di sản đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, như nghệ thuật xòe Thái tỉnh Điện Biên, Tết Nào Pê Chầu của người Mông đen (bản Nậm Pọng), lễ Tủ cải (lễ đặt tên âm - tên thứ hai cho người con trai đã trưởng thành) của người Dao quần chẹt (bản Huổi Lóng)…
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên
Công tác bảo tồn di sản văn hóa được tỉnh quan tâm, chú trọng. Tỉnh Điện Biên đã phối hợp với Bộ VHTTDL cùng một số tỉnh triển khai xây dựng Hồ sơ di sản “Thực hành then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam”, di sản “Nghệ thuật xòe Thái” đề nghị UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa đưa vào danh mục di sản văn hóa quốc gia được quan tâm triển khai. Tổng kiểm kê nhằm nhận diện thực trạng di sản văn hóa phi vật thể của 18 dân tộc (trong đó dân tộc Mông đã tiến hành kiểm kê ngành Mông xanh và Mông đen). Đến nay, toàn tỉnh có 12 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: nghệ thuật Xòe Thái tỉnh Điện Biên; Tết Nào Pề Chầu của người Mông đen tại bản Nậm Pong, lễ Kin Pang Then của người Thái trắng tại bản Na Nát, lễ hội đền Hoàng Công Chất tại Thành Bản Phủ, Tết té nước của người Lào tại bản Na Sang 1, nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục truyền thống của người Mông hoa tại bản Cổng Trời…
Cùng với đó, công tác sưu tầm, bảo tồn và dịch thuật, in ấn tài liệu chữ viết cổ cũng được quan tâm thực hiện. Đến nay, đã sưu tầm được hơn 200 cuốn sách (tài liệu) cổ của một số dân tộc (Thái, Dao, Lự). Bảo tồn tiếng nói và chữ viết của dân tộc thiểu số (tiếng Thái và tiếng Mông) đang được triển khai thực hiện hiệu quả, trong 10 năm qua (2010-2020) đã có gần 49.300 học sinh tiểu học, trung học cơ sở học tiếng Thái; hơn 57.100 học sinh tiểu học, trung học cơ sở học tiếng Mông. Cụ thể, Điện Biên đã tổ chức cho 265 trường tiểu học dạy học tiếng Thái, với 1.162 lớp và 26.098 học sinh tham gia; 256 trường tiểu học tổ chức dạy học tiếng Mông, với 1.352 lớp, thu hút 33.483 học sinh tham gia. Ở cấp trung học cơ sở, 122 trường trung học cơ sở tổ chức dạy học tiếng Thái, với 722 lớp, thu hút 23.168 học sinh tham gia; 133 trường tổ chức dạy học tiếng Mông, với 688 lớp, thu hút 23.654 học sinh tham gia. Cùng với đó là thực hiện các dự án mục tiêu quốc gia về bảo tồn văn hóa như dự án 6, dự án 5, dự án 7… Trong đó, hỗ trợ 4 nghệ nhân người dân tộc thiểu số; mở 50 lớp tập huấn, bồi dưỡng truyền dạy văn hóa phi vật thể; thực hiện 2 dự án nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn, phát huy văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một; hỗ trợ hoạt động cho 167 đội văn nghệ truyền thống...
Việc giáo dục tuyên truyền, giới thiệu các di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc cho học sinh thông qua các chương trình chính khóa, ngoại khóa, các hoạt động tập thể được quan tâm thực hiện có hiệu quả. Và đặc biệt là việc triển khai Đề án phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên, trong đó có dân tộc Cống và dân tộc Si La đã được các cấp, các ngành quan tâm, đầu tư nguồn lực. Nhờ đó đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc Cống, Si La trên địa bàn tỉnh cơ bản được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm; đa số đồng bào được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, thông tin; các giá trị văn hóa đặc trưng được bảo tồn.
Thực trạng phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên
Tỉnh Điện Biên đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trên cơ sở khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế; dựa trên 3 trụ cột chính là: du lịch lịch sử - tâm linh; du lịch bản sắc văn hóa dân tộc, khám phá cảnh quan thiên nhiên; du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, chăm sóc sức khỏe bằng các chính sách cụ thể, trong đó Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 7-5-2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển du lịch Điện Biên đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Về công tác phát triển sản phẩm du lịch: Các sản phẩm du lịch lịch sử - tâm linh là những sản phẩm trọng tâm, chủ đạo luôn được tỉnh Điện Biên tập trung khai thác như sản phẩm du lịch gắn với di tích chiến trường Điện Biên Phủ “Hành quân theo dấu chân chiến sĩ Điện Biên”, “Hành quân theo chiến dịch”, “Du lịch xe đạp thồ”, “tải đạn”... Các sản phẩm du lịch bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số như tham quan di tích Thành Bản Phủ, thành Sam Mứn, tháp Mường Luân, tháp Chiềng Sơ… Tham gia các lễ hội như: lễ hội Hoa Ban, lễ hội đua thuyền đuôi Én, lễ hội Thành Bản Phủ, lễ hội Xuân Phìn Hồ, lễ hội Xên Mường Thanh… đã và đang tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa riêng biệt cho du lịch tỉnh Điện Biên.
Về công tác xúc tiến, quảng bá du lịch: Tỉnh Điện Biên xác định trọng tâm tuyên truyền chủ trương của tỉnh về phát triển du lịch, giới thiệu quảng bá các điểm tham quan, các hoạt động du lịch, đặc biệt là tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về các hoạt động, sự kiện văn hóa, văn nghệ, thể thao và các ngày hội khác của tỉnh được tổ chức hằng năm gắn với giới thiệu bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, vẻ đẹp vùng đất và con người Điện Biên; các hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại giữa Điện Biên với các tỉnh Bắc Lào, Đông Bắc - Thái Lan và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Tỉnh Điện Biên đã tích cực tổ chức truyền thông quảng bá thông qua nền tảng số, internet, mạng xã hội, các phương tiện truyền thống, thông tin đại chúng như svhttdldienbien.gov.vn và dulichdienbien.vn với 2 ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh trên fanpage “Lễ hội hoa Ban Điện Biên”; fanpage “Du lịch Điện Biên - Dienbien Tourism” tiếp cận, thu hút được hàng trăm nghìn lượt tương tác. Ngoài ra, tỉnh cũng đã tổ chức thực hiện trên 4.430 tin bài, phóng sự về công tác du lịch bằng 3 thứ tiếng Việt, Thái, Mông; thực hiện 9 chương trình truyền hình trực tiếp về Lễ hội hoa Ban, sự kiện hoa Anh Đào. Tổ chức trên 43 hoạt động tham gia giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá xúc tiến du lịch Điện Biên tại các sự kiện, hội chợ du lịch, lễ hội, liên hoan ẩm thực trong nước gồm: Hội chợ Du lịch quốc tế Hà Nội -VITM, Hội chợ Du lịch quốc tế TP.HCM - ITE HCMC, Liên hoan Ẩm thực toàn quốc, Hội chợ Du lịch Tây Bắc, Liên hoan làng nghề Hà Nội…
Về công tác đầu tư phát triển du lịch: Tỉnh Điện Biên luôn duy trì nguồn ngân sách địa phương để đầu tư phát triển hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Điện Biên đã bố trí ngân sách cho phát triển du lịch tương đối thấp với chỉ 85 tỷ đồng giai đoạn 2009-2015, hơn 80 tỷ cho giai đoạn 2016-2020. Cụ thể, tỉnh đã đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch, các hoạt động tuyên truyền, tổ chức các lễ hội như Lễ hội hoa Ban, sự kiện hoa Anh đào - Pá Khoang, Lễ hội đua thuyền Đuôi Én…
Lượng khách du lịch và tổng doanh thu: Lượng khách và doanh thu du lịch đến tỉnh Điện Biên tăng nhanh qua các năm. Năm 2024, tỉnh đã đón hơn 1,8 triệu lượt khách với doanh thu đạt hơn 3,3 nghìn tỷ đồng.
Bảng 1. Lượt khách và doanh thu du lịch tỉnh Điện Biên giai đoạn 2020-2024 (Nguồn: Sở VHTTDL Điện Biên, 2024)
Thách thức trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch ở Điện Biên
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch ở Điện Biên gặp không ít thách thức. Trong đó, các yếu tố văn hóa truyền thống có nguy cơ bị mai một. Nguyên nhân chủ yếu do sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ dẫn đến các yếu tố văn hóa mới lạ được du nhập vào đời sống các dân tộc thiểu số, hay sự di cư của giới trẻ đến thành thị để làm việc, sinh sống và thiếu cơ chế truyền dạy văn hóa cho thế hệ trẻ. Đời sống của người dân được cải thiện dẫn đến người dân không còn duy trì các nghề thủ công như nghề rèn của người Mông, thêu giày của người Xạ Phang… Trang phục các dân tộc được làm thủ công cầu kỳ với những nét hoa văn độc đáo để nhận diện dân tộc đến nay đã bị mai một, dần thất truyền. Người dân không dành nhiều thời gian cho nghề thủ công truyền thống; trang phục hằng ngày, dụng cụ lao động chỉ cần ra chợ là có sẵn.
Các yếu tố về điều kiện tự nhiên, địa hình cũng là một thách thức lớn trong bảo tồn các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Điện Biên. Nhiều bản làng dân tộc thiểu số ở vùng sâu, xa (như Mường Nhé, Tủa Chùa) thiếu đường giao thông, điện, internet, gây khó khăn cho việc kết nối du lịch. Các dự án bảo tồn thường phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, trong khi nguồn lực địa phương hạn chế.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Điện Biên còn thiếu vắng sự tham gia của cộng đồng địa phương. Nhiều chính sách, chương trình bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch chưa có sự tham gia của đại đa số cộng đồng địa phương, một số cộng đồng là đồng bào dân tộc thiểu số chưa tiếp cận được các chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa do nhiều yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, khó khăn trong quảng bá và tiếp thị du lịch cũng gây cản trở đến quá trình bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch ở Điện Biên như: thiếu chiến lược bài bản dẫn đến sản phẩm du lịch văn hóa ở Điện Biên chưa được xây dựng thành hệ thống, chủ yếu dựa vào các điểm di tích lịch sử (như Quần thể di tích quốc gia chiến trường Điện Biên Phủ) mà chưa khai thác sâu văn hóa bản địa. Các hạn chế về công nghệ, nguồn nhân lực du lịch Điện Biên chưa được đào tạo bài bản, hướng dẫn viên du lịch thiếu hiểu biết sâu về văn hóa các dân tộc thiểu trên địa bàn tỉnh...
3. Thảo luận
Điện Biên là vùng đất giàu bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Dao... công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cần tiếp cận đa chiều, kết hợp giữa nghiên cứu chuyên sâu, phát huy vai trò cộng đồng và xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả.
Thứ nhất, việc bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc thiểu số cần bắt đầu từ công tác nghiên cứu, kiểm kê toàn diện. Các di sản vật thể (kiến trúc nhà sàn, trang phục) và phi vật thể (lễ hội, âm nhạc, tri thức dân gian, ẩm thực) cần được phân loại, đánh giá giá trị và xây dựng thành cơ sở dữ liệu số. Ứng dụng công nghệ 3D, thực tế ảo (VR) trong số hóa không chỉ lưu giữ tư liệu lâu dài mà còn tạo công cụ trực quan để quảng bá du lịch.
Thứ hai, cần phục dựng các giá trị văn hóa bị mai một như lễ hội và nghề thủ công là “linh hồn” văn hóa, song nhiều nghi thức đang dần biến mất do tác động của đô thị hóa. Để khắc phục, cần phục dựng các lễ hội đặc trưng như Gầu Tào (Mông) với sự tham gia chủ động của nghệ nhân và cộng đồng. Song song đó, việc hỗ trợ phát triển nghề dệt thổ cẩm, đan lát thông qua hợp tác xã sẽ tạo sinh kế bền vững. Các sản phẩm này không chỉ phục vụ đời sống mà còn trở thành quà lưu niệm độc đáo, gắn kết trực tiếp với trải nghiệm du lịch.
Thứ ba, xây dựng mô hình du lịch phù hợp. Mô hình du lịch cộng đồng tại các bản văn hóa nơi người dân tự quản lý hoạt động homestay, tổ chức trải nghiệm ẩm thực và nghề truyền thống. Điều này giúp phân phối lợi nhuận công bằng, tăng tính chủ động cho cộng đồng. Bên cạnh đó, thiết kế tour kết hợp di tích lịch sử Điện Biên Phủ với văn hóa bản địa sẽ đa dạng hóa sản phẩm du lịch, thu hút cả khách trong nước và quốc tế.
Thứ tư, các chính sách bảo tồn và phát huy tri thức bản địa như cấp chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm đặc trưng (rượu cần, thổ cẩm) cần được ưu tiên. Đồng thời, thành lập Ban quản lý di sản văn hóa và du lịch để giám sát hoạt động, tránh tình trạng thương mại hóa quá mức làm biến dạng di sản văn hóa. Xây dựng khung pháp lý rõ ràng cân bằng giữa bảo tồn và khai thác, đảm bảo quyền lợi của người dân tộc thiểu số.
Thứ năm, đào tạo kỹ năng quản lý homestay, hướng dẫn viên địa phương và vệ sinh môi trường là yếu tố then chốt để du lịch phát triển bền vững. Cộng đồng cần hiểu rõ giá trị di sản của mình để trở thành “đại sứ văn hóa”. Bên cạnh đó, lồng ghép nội dung giáo dục di sản vào chương trình học giúp thế hệ trẻ ý thức gìn giữ bản sắc, từ đó hình thành lực lượng kế cận cho công tác bảo tồn.
Thứ sáu, xây dựng hạ tầng giao thông kết nối các điểm di sản cần được đầu tư, ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương và thiết kế phù hợp cảnh quan. Các homestay nên áp dụng mô hình sinh thái, tiết kiệm năng lượng và hạn chế rác thải nhựa. Việc này vừa giảm áp lực lên môi trường, vừa tạo hình ảnh “du lịch xanh” thu hút khách có trách nhiệm.
Thứ bảy, quảng bá du lịch có trách nhiệm bằng việc xây dựng thương hiệu “Điện Biên - Di sản và Hội tụ văn hóa” thông qua phim tài liệu, mạng xã hội và hợp tác với các hãng lữ hành uy tín. Cần chú trọng tiếp thị nhóm khách du lịch có ý thức tôn trọng văn hóa bản địa, tránh phát triển ồ ạt gây quá tải. Tour du lịch nên thiết kế theo hướng trải nghiệm sâu, tương tác trực tiếp với đời sống cộng đồng.
4. Kết luận
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch tại Điện Biên là một nhiệm vụ mang tính chiến lược, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ di sản và khai thác kinh tế. Thực tiễn cho thấy, di sản văn hóa không chỉ là “tài nguyên mềm” để phát triển du lịch mà còn là cốt lõi định hình bản sắc, gắn kết cộng đồng. Để đạt được mục tiêu này, cần tiếp cận theo hướng đa ngành, lấy cộng đồng làm trung tâm và du lịch bền vững làm nền tảng. Tóm lại, phát triển du lịch dựa trên bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số ở Điện Biên không chỉ là bài toán kinh tế mà còn là cam kết văn hóa - xã hội. Thành công của mô hình này phụ thuộc vào sự đồng bộ từ chính sách, công nghệ, giáo dục đến sự tham gia tích cực của người dân. Khi di sản được tôn trọng và trao quyền khai thác đúng mực, Điện Biên sẽ trở thành điểm đến tiêu biểu của du lịch văn hóa, nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện, tạo đà phát triển bền vững cho tương lai (1).
_________________________
1. Nghiên cứu này được Trung tâm hỗ trợ nghiên cứu châu Á - Đại học Quốc gia Hà Nội tài trợ từ nguồn kinh phí của Viện Nghiên cứu cao cấp CHEY, mã số CA.24.02A.
Tài liệu tham khảo
1. Điện Biên: Thách thức bảo tồn di sản văn hóa, bvhttdl.gov.vn, 23-11-2023.
2. Giàng A Dình, Điện Biên: Phát huy hiệu quả các chính sách dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, consosukien.vn, 16-9-2024.
3. Hà Nam Khánh Giao, Bản sắc văn hóa vùng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu hội thảo Thực trạng và tác động của các yếu tố an ninh phi truyền thống vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, 2018.
4. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2006.
5. Nguyễn Thị Thu Hoài, Tỉnh Điện Biên bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, tapchicongsan.org.vn, 2018.
6. Sở VHTTDL, Báo cáo kết quả du lịch giai đoạn 2020-2024, 2024.
7. Smith, V. L., Hosts and guests: The anthropology of tourism (Chủ nhà và khách: Nhân chủng học về du lịch), University of Pennsylvania Press, 2010.
8. Timothy, D. J., & Boyd, S. W., Heritage tourism (Du lịch di sản), Pearson Education, 2003.
9. Tỉnh ủy Điện Biên, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 20-12-2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và Kết luận số 01-KL/TU ngày 20-5-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Điện Biên về Chương trình bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên gắn với phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, 2020.
10. UBND tỉnh Điện Biên, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch giai đoạn 2016-2020, Xây dựng kế hoạch phát triển sự nghiệp du lịch giai đoạn 2021-2025, 2020.
11. UBND tỉnh Điện Biên, Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025, tỉnh Điện Biên, 2020.
12. UBND tỉnh Điện Biên, Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Điện Biên lớp 7, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2023.
13. World Tourism Organization, UNWTO Tourism Data Dashboard (Bảng dữ liệu du lịch của UNWTO), unwto.org, 2023.
Ngày Tòa soạn nhận bài: 22-6-2025; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 12-7-2025; Ngày duyệt bài: 10-8-2025.
PGS, TS PHẠM HỒNG LONG - TS BÙI NHẬT QUỲNH - TS NGUYỄN MẠNH HÀ - Ths NGÔ VIỆT ANH - LÒ THỊ TUYỆT
Nguồn: Tạp chí VHNT số 618, tháng 9-2025