Ca khúc cách mạng: Từ khúc hành quân lịch sử đến giai điệu trường tồn

Các nhạc sĩ đang biểu diễn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (ảnh tư liệu)

 

Âm nhc cách mng Vit Nam không ch là tiếng hát vang lên trong nhng thi khc lch sử, mà còn là nhp đập ca trái tim dân tc, đồng hành từng bước trên con đường giành độc lập, bảo vệ và xây dựng đất nước. Từ cao trào Cách mạng Tháng Tám 1945, qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đến thời kỳ hòa bình, thống nhất, mỗi ca khúc ra đời đều phản ánh khí thế thời đại, khắc ghi tâm tư, khát vọng của con người Việt Nam. Đó là những khúc hành quân hào sảng, những giai điệu tha thiết về quê hương, tình đồng chí, đồng bào; là lời kêu gọi vùng lên, lời hẹn ước ngày chiến thắng. Vượt ra khỏi khuôn khổ một thể loại âm nhạc, ca khúc cách mạng đã trở thành ký ức chung, là di sản tinh thần giàu sức sống, tiếp tục lan tỏa và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ hôm nay và mai sau.

Giai đoạn Cách mạng Tháng Tám 1945

Đây là giai đon hết sc đặc bit ca nn âm nhc mi Vit Nam nói chung, âm nhc cách mng Vit Nam nói riêng bi thi đim này âm nhc mi bt đầu chuyn sang giai đon mi, giai đoạn của sự phát triển, việc sáng tác ca khúc nhạc Việt, lời Việt đã bắt đầu định hình. Dẫu vậy, ngay từ thời kỳ đầu này, chúng ta đã có nhiều tác phẩm xuất sắc, nhiều gương mặt âm nhạc sau này trở thành những nhạc sĩ lớn, góp phần tạo nên lịch sử âm nhạc Việt Nam ở thời đại mới.

Trong cao trào tiền khởi nghĩa và đặc biệt là thời khắc Cách mạng Tháng Tám 1945, âm nhạc cách mạng Việt Nam không chỉ là hình thức nghệ thuật hay phương tiện tuyên truyền, mà đã trở thành một thành tố quan trọng, góp phần hun đúc khí thế cách mạng và tạo nên sức mạnh nội tại thúc đẩy sự thay đổi lịch sử của dân tộc. Trong khoảng thời gian 2 năm, từ 1944 đến 19/8/1945 đã xuất hiện nhiều tác phẩm tiêu biểu như Lên đàng (1944) của Lưu Hữu Phước - Huỳnh Văn Tiểng, Tiến quân ca (1944) của Văn Cao, Du kích ca (trước 1945) của Đỗ Nhun, Diệt phát xít (1945) của Nguyễn Đình Thi… Mỗi bài hát đều chứa đựng sức sống mãnh liệt, là tiếng gọi từ trái tim người Việt về khát vọng độc lập, tự do và chủ quyền dân tộc.

Những ca khúc ấy vừa truyền tải cảm xúc, vừa định hình lý tưởng cách mạng, truyền cảm hứng và đồng hành cùng từng bước tiến của nhân dân trên con đường đấu tranh gii phóng. “Sức mạnh” của chúng nằm ở sự giản dị, dễ thuộc, dễ hát; cùng với tinh thần dân gian hiện hữu trong ca khúc lại kết hợp yếu tố âm nhạc phương Tây như nhịp hành khúc, cấu trúc mạch lạc, tạo nên âm hưởng hào hùng. Chính nhờ vậy, chúng lan tỏa nhanh chóng, thấm sâu vào tâm thức mọi tầng lớp xã hội, từ thanh niên trí thức, công nhân đến người nông dân...

Mỗi tác phẩm ở thời gian này lại có sắc thái riêng, phù hợp với từng đối tượng, chẳng hạn như ca khúc Lên đàng khích lệ và khơi dậy tinh thần “xếp bút nghiên lên đường” trong tầng lớp thanh niên trí thức tiến bộ. Tiến quân ca vang lên khắp Hà Nội trong ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945, để rồi từ 2/9/1945 trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng thời điểm đó, ca khúc Mười chín Tháng Tám (1945) của Xuân Oanh phản ánh trực tiếp khí thế sục sôi của cuộc khởi nghĩa, nhanh chóng lan truyền khắp cả nước; Đoàn V quc quân (1945) của Phan Huỳnh Điểu và Du kích ca cổ vũ ý chí chiến đấu, tinh thần đoàn kết bảo vệ Tổ quốc…

Đoàn múa hát quân giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện chuyến lưu diễn quốc tế qua 3 châu 6 quốc gia: Cu Ba, Liên Xô, CHDC Đức, Hungari, CHDCND Triều Tiên năm 1967 (ảnh tư liệu của NSND Đỗ Lộc) 
 

Âm nhạc thời kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954)

Bước sang thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, âm nhạc cách mạng Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò sắc bén của mình, nhưng giờ đây mang thêm màu sắc kiên cường, bền bỉ và tinh thần trường kỳ kháng chiến. Nếu như giai đoạn Cách mạng Tháng Tám chủ yếu khơi dậy khí thế vùng lên, thì giai đoạn 1946 -1954, ca khúc cách mạng vừa là lời hiệu triệu chiến đấu, vừa là nguồn động viên tinh thần vượt qua gian khổ, nuôi dưỡng niềm tin chiến thắng.

Nhiều sáng tác tiêu biểu đã trở thành hành trang tinh thần của quân và dân kháng chiến. Nhớ chiến khu (1947) của Hoàng Việt mang giai điệu tha thiết, gợi nhớ những năm tháng gắn bó nghĩa tình nơi chiến khu; Người Hà Nội (1947) của Nguyễn Đình Thi là một bản trường ca khắc họa hình ảnh quân và dân Hà Nội anh dũng chiến đấu và ngày vui chiến thắng; Bà mẹ Gio Linh (1948) của Phạm Duy… vừa khắc họa hình ảnh quê hương, vừa tôn vinh con người bình dị mà anh dũng.

Trong khi đó, Du kích sông Thao (1949) của Đỗ Nhun vi tiết tu rn ràng, hình nh người du kích kiên cường gia núi rng Tây Bc; cùng là tác phm ca Văn Cao và cùng ra đời năm 1949, Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949) trang nghiêm, hùng tráng còn ca khúc Tiến về Hà Nội lại như tiếng kèn chiến thắng vang dội khi quân ta tiến vào tiếp quản Thủ đô; Nhạc rừng (1953) của Hoàng Việt được sáng tác Nam b li toát lên tinh thn lc quan cách mngNgoài ra, cũng phải kể tới 3 tác phẩm đều chung mt tên là Làng tôiđều được ph biến rng rãi giai đon này, c th gm Làng tôi (1947) của Văn Cao, Làng tôi (1949) của Hồ Bắc và Làng tôi (1952) của Chung Quân.

Giai đoạn cao điểm của chiến dịch Điện Biên trong hai năm 1953 - 1954 xuất hiện thêm nhiều tác phẩm ý nghĩa, chẳng hạn Hò kéo pháo (1954) của Hoàng Vân, đặc biệt nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác tới 3 tác phẩm đều rất xuất sắc gồm: Hành quân xa (1953), Trên đồi Him LamChiến thắng Điện Biên (đều năm 1954).

Như vậy ở giai đoạn này, đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Các bài hát cũng đã đa dạng đề tài. Đim chung ca âm nhc giai đon này là s kết hp nhun nhuyn gia âm hưởng dân ca vùng min vi k thut sáng tác hin đại, to nên tác phm va gn gũi, va có sc truyn cm mnh mẽ. Hành khúc tiếp tc đóng vai trò ch đạo để c vũ khí thế chiến đấu, trong khi nhng bài hát tr tình cách mng khơi gi ni nh quê hương, nim thương yêu đồng bào, giúp người chiến sĩ thêm vng tâm trong gian khó.

Âm nhc kháng chiến chng Pháp không ch ghi li du n lch sử, mà còn hình thành mt ngôn ng âm nhc đặc trưng cho thi k này - nơi tinh thn anh hùng, tình yêu đất nước, nim tin chiến thng hòa quyn thành giai điu. Nhng ca khúc ra đời khi y đến nay vn được hát, được nghe, như minh chng rng sc sng ca âm nhc cách mng luôn vượt thi gian, đồng hành cùng ký c và bn lĩnh ca dân tc Vit Nam.

Các văn nghệ sĩ Liên khu III năm 1948 

Ảnh tư liệu


Sinh hoạt văn nghệ trong kháng chiến chống Pháp

Ảnh tư liệu
 

Âm nhạc thời kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève 1954, đất nước tạm thời chia cắt hai miền. Ở miền Bắc, âm nhạc cách mạng bước vào một giai đoạn mới vừa xây dựng cuộc sống hòa bình, vừa chuẩn bị chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ mở rộng, âm nhạc lại một lần nữa trở thành tiếng gọi tập hợp lực lượng, khích lệ ý chí, nuôi dưỡng niềm tin tất thắng.

Âm nhc nơi tin tuyến mang đậm tinh thn quyết t, khát vng gii phóng min Nam, thng nht đất nước. Hàng lot ca khúc, hành khúc hùng tráng ra đời, tr thành hành trang tinh thn ca người lính: Bài ca hy vọng (1958) của Văn Ký, Giải phóng miền Nam (1961) của Huỳnh Minh Siêng, Bước chân trên di Trường Sơn (1966) của Vũ Trọng Hối, Bài ca bên cánh võng (1969) của nhạc sĩ Nguyên Nhung, Bác đang cùng chúng cháu hành quân (sáng tác 1969, phổ biến 1970) của Huy Thục, Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây được Phm Tiến Dut sáng tác thơ năm 1969 và Hoàng Hip ph nhc năm 1971, Lá đỏ (1974) của Nguyễn Đình Thi…

Có thể nói, không chỉ ca ngợi chiến công, mà còn khắc họa hình ảnh người chiến sĩ gắn bó với đồng bào, với núi rừng, với con đường Trường Sơn lịch sử. Nhiều nhạc sĩ đã trực tiếp sống, sáng tác giữa chiến trường, mang tiếng đàn, tiếng hát thắp sáng niềm tin giữa khói lửa.

Âm nhc nơi hu phương min Bc thi k này mang sc thái va hùng tráng, va tha thiết, hướng v tin tuyến. Khi máy bay M ném bom min Bc, đặc bit là cuc chiến tranh phá hoi ác lit t năm 1965, hàng lot ca khúc mang tính c vũ tinh thn, khng định ý chí thóc không thiếu mt cân, quân không thiếu mt người đã ra đời. Nhng bài hát như Cô gái mở đường (1966) của Xuân Giao, Chiếc gậy Trường Sơn (1967) của Phạm Tuyên, Người chiến sĩ ấy (1969) của Hoàng Vân, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa (1973) của Nguyễn Văn Tý… vừa ngợi ca sự kiên cường của hậu phương, vừa thể hiện tình yêu quê hương và niềm tin vào ngày chiến thắng.

Âm nhc trong phong trào phn chiến min Nam là mt mch ngm đầy sc mnh, len li qua mi k h ca chế độ kim duyt. Nhiu ca khúc vi li ca giàu tính nhân văn, kêu gi hòa bình, phn đối chiến tranh được truyn ming, bí mt lưu hành hoc trình din trong các phong trào sinh viên, hc sinh, công nhân. Các tác phm như Dậy mà đi (Nguyễn Xuân Tân), Hát cho dân tôi nghe (Huỳnh Phước Long - Lưu Hữu Phước) không chỉ là tiếng nói phản kháng mà còn là lời kêu gọi đoàn kết dân tộc. Song song, dòng nhạc đỏ miền Bắc vẫn âm thầm được gửi vào miền Nam, tiếp thêm lửa cho phong trào đấu tranh.

Trường âm nhạc đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp

Ảnh tư liệu
 

Âm nhc kháng chiến chng M vì thế va là mch máu ni lin hu phương với tiền tuyến, vừa là cây cầu vô hình kết nối hai miền trong khát vọng hòa bình. Dù vang lên ở chiến hào, giữa đêm Trường Sơn, trong phòng họp ở hậu phương, hay lén lút trong một buổi sinh hoạt bí mật ở Sài Gòn, những giai điệu ấy đều hướng về một mục tiêu đó là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nhìn lại chặng đường từ những ngày tiền khởi nghĩa, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ có thể thấy dòng ca khúc cách mạng luôn đồng hành cùng lịch sử dân tộc như một mạch nguồn bền bỉ, không bao giờ khô cạn. Mỗi bài hát là một trang ký ức sống động, ghi lại những thời khắc bi tráng và tự hào, phản ánh chân thực tâm hồn, ý chí và khát vọng của con người Việt Nam.

Ý nghĩa ca dòng ca khúc này còn chđã hình thành mt bn sc âm nhc mang đậm tinh thn Vit Nam. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm hưởng dân gian với yếu tố hiện đại, vừa giản dị, gần gũi, vừa giàu tính nghệ thuật. Chính sự dung hòa ấy khiến những bài hát cách mạng không chỉ là sản phẩm của một giai đoạn, mà có sức sống vượt thời gian, tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

 

NGUYỄN QUANG LONG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 617, tháng 8-2025

;