Mô hình phát triển văn hóa XHCN mang đặc sắc Trung Quốc
Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra khái niệm công nghiệp văn hóa và đặt ra các yêu cầu cụ thể về cải cách thể chế nhằm phát triển công nghiệp văn hóa tại Kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc chế định kế hoạch 5 năm lần thứ X phát triển kinh tế và xã hội quốc dân (tháng 10-2000). Tiếp đó, Đại hội lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (2002) chính thức công bố sự phát triển các ngành CNVH là nhiệm vụ trọng tâm trong Kế hoạch 5 năm lần thứ X và đưa ra mệnh đề: “giải phóng và phát triển sức sản xuất văn hóa”, tập trung cải cách thể chế, dỡ bỏ những rào cản đối với sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Trong chiến lược phát triển được ban hành vào tháng 12-2005, BCH T.Ư Đảng đã sử dụng thuật ngữ “các ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo”.
Tháng 11-2002, Báo cáo Đại hội XVI lần đầu tiên nêu: “Xây dựng toàn diện xã hội khá giả, đẩy mạnh phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa” trong đó bao gồm: xác định chiến lược phát triển CNVH; đi sâu cải cách thể chế văn hóa; phát triển các tập đoàn CNVH. Tháng 11-2011, Hội nghị T.Ư 6 Đại hội XVII đã ra nghị quyết những vấn đề trọng đại của T.Ư Đảng Cộng sản Trung Quốc về đi sâu cải cách thể chế văn hóa, thúc đẩy đại phát triển, đại phồn vinh văn hóa xã hội chủ nghĩa, trong đó có nội dung: “đẩy nhanh phát triển CNVH, thúc đẩy CNVH trở thành sản nghiệp trụ cột của nền kinh tế quốc dân”; “đi sâu cải cách mở cửa, tăng nhanh xây dựng thể chế và cơ chế có lợi cho sự phát triển phồn vinh văn hóa” và “xây dựng đội ngũ nhân tài văn hóa lớn mạnh, nhằm cung cấp trụ cột nhân tài mạnh mẽ vì sự đại phát triển, đại phồn vinh của văn hóa xã hội chủ nghĩa”.
Tháng 12-2019, Quốc Vụ viện Trung Quốc ban hành Quy hoạch chấn hưng văn hóa, sắp xếp toàn diện cho phát triển của CNVH. Bộ Văn hóa Trung Quốc công bố “Một số ý kiến chỉ đạo về tăng cường phát triển CNVH”, trong đó xác định 10 lĩnh vực trọng điểm gồm: nghệ thuật biểu diễn, hoạt hình, triển lãm văn hóa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật, Games Online, thiết kế sáng tạo, sản phẩm nghệ thuật, giải trí, du lịch văn hóa, dịch vụ văn hóa kỹ thuật số.
Năm 2018, tổng giá trị CNVH Trung Quốc đạt 4117,1 tỷ nhân dân tệ (khoảng 600 tỷ USD). Từ năm 2005 đến năm 2018, hằng năm CNVH bình quân tăng trưởng đạt 18,9%, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của Trung Quốc là 7,9%; tỷ trọng CNVH trong nền kinh tế quốc dân năm 2018 chiếm 4,3% GDP.
Pháp luật về văn hóa: Nhằm xây dựng hoàn thiện thể chế pháp luật, Trung Quốc đẩy mạnh việc xây dựng các bộ luật về lĩnh vực văn hóa. Năm 2016, liên tiếp 2 bộ luật quan trọng được thông qua, gồm: Luật bảo đảm dịch vụ văn hóa công cộng và Luật thúc đẩy sản nghiệp điện ảnh. Trong đó, Luật bảo đảm dịch vụ văn hóa công cộng lấy con người làm trung tâm, được định hướng bởi các giá trị cốt lõi của xã hội chủ nghĩa, tất cả các cấp chính quyền có trách nhiệm cải thiện các trung tâm dịch vụ văn hóa cộng đồng, cung cấp nhiều hơn các sản phẩm trực tuyến, cân bằng giữa dịch vụ văn hóa tại thành thị và nông thôn, huy động các nguồn vốn tư nhân đầu tư các thiết chế văn hóa công cộng, chú trọng các nhóm người yếu thế, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khuyến khích các sản phẩm văn hóa dân tộc thiểu số, mở rộng hợp tác quốc tế. Luật thúc đẩy sản nghiệp điện ảnh có nhiều điểm cởi mở hơn, hủy bỏ chế độ giấy phép sản xuất, tăng cường giám sát quản lý sau sản xuất, xây dựng hồ sơ tín nhiệm xã hội, khuyến khích hợp tác sản xuất phim với nước ngoài, đưa sản nghiệp điện ảnh vào quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, đa dạng hóa chính sách đảm bảo sản nghiệp điện ảnh phát triển… Tiếp đó, Luật Thư viện công cộng được ban hành. Năm 2019, Trung Quốc tiếp tục đưa ra lấy ý kiến nhân dân dự thảo Luật thúc đẩy sản nghiệp văn hóa. Quốc vụ viện Trung Hoa cũng đưa vào chương trình công tác việc sửa đổi Luật Bản quyền, Luật Bảo vệ Di sản văn hóa. Kế hoạch dự thảo một đạo luật về thị trường văn hóa cũng đang được xem xét. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng đảm bảo quyền văn hóa của người dân và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNVH tại Trung Quốc.
Tăng đầu tư cho văn hóa: Chính phủ cần chú trọng đến phát triển CNVH trong kế hoạch chung về phát triển kinh tế, xã hội; tăng đầu tư hằng năm cho CNVH với mức độ không thấp hơn tốc độ đầu tư tài chính nói chung. Bên cạnh việc ưu tiên tăng đầu tư tài chính cho CNVH nói chung, Trung Quốc còn ưu tiên phát triển CNVH ở các vùng kém phát triển ở miền Trung và phía Tây Trung Quốc cũng như các khu vực thiểu số.
Tái cấu trúc các doanh nghiệp văn hóa và củng cố các thiết chế văn hóa chủ đạo phục vụ công ích: Ưu tiên xây dựng các cơ sở thiết chế văn hóa chủ đạo phục vụ nhân dân. Tập trung xây dựng các dự án văn hóa trọng điểm quốc gia như viện bảo tàng và nhà hát quốc gia, cơ sở văn hóa công cộng phải được xây dựng ở các địa điểm thuận lợi. Các cơ sở văn hóa nếu cần phá dỡ, phải xây dựng các cơ sở mới ở địa điểm bên cạnh. Các thành phố lớn và quy mô trung bình cần coi trọng việc xây dựng các thư viện, bảo tàng và các trung tâm khoa học và công nghệ. Các quận và thị trấn cần xây dựng các trung tâm văn hóa.
Hình thành hệ thống Quỹ đầu tư: Thiết lập và hoàn thiện một hệ thống các quỹ đặc biệt từ nguồn ngân sách quốc gia và các quy định mức phí thu cụ thể. Các cơ quan tài chính phải dành ngân sách để lập các quỹ đặc biệt, ví dụ như: Quỹ đặc biệt xây dựng và tổ chức các chương trình nghệ thuật tiêu biểu, Quỹ đặc biệt phát triển phim quốc gia và Quỹ đặc biệt quảng bá, giới thiệu hình ảnh. Quỹ văn hóa không bị tinh giảm tổ chức và nhân sự từ việc cải cách hệ thống. Thu nhập từ các cơ sở văn hóa không sử dụng để thay thế cho quỹ đầu tư văn hóa. Thu phí xây dựng văn hóa trên toàn quốc, cơ sở kinh doanh văn hóa giải trí như vũ trường, karaoke, phòng trà, sân golf và bowling, tổ chức kinh doanh quảng cáo nộp 3% doanh thu làm kinh phí dành cho Quỹ xây dựng văn hóa.
Quỹ đầu tư dành cho CNVH của Chính phủ và doanh nghiệp đều có ưu thế riêng, cần kết hợp có hiệu quả giúp CNVH phục hồi và phát triển. Quỹ đầu tư của chính phủ có những quy định hạn chế được mức độ rủi ro. Quỹ đầu tư CNVH của doanh nghiệp góp phần hoàn thiện thể chế vận động của nền kinh tế thị trường, quản lý linh hoạt. Sử dụng và phát huy ưu thế riêng của hai loại quỹ này sẽ hỗ trợ hiệu quả cho CNVH phát triển hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Mô hình xuất khẩu văn hóa của Hàn Quốc
Đóng góp cho sự nhảy vọt thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc có vai trò của nền công nghiệp nội dung văn hóa với làn sóng K-pop, K-drama... xuất khẩu văn hóa ra toàn thế giới. Một trong những chuyển biến cấp tiến làm nên thành công là việc chuyển hướng chính sách CNVH từ kiểm soát về chính trị sang, coi CNVH là trọng tâm của các chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu vào đầu những năm 1990. Chính sách phát triển các ngành CNVH được triển khai đồng bộ cùng đầu tư của Chính phủ vào các ngành chiến lược khác như công nghệ thông tin và truyền thông, hướng nền công nghiệp này theo hướng “xuất khẩu” các sản phẩm văn hóa mang thương hiệu Hàn Quốc ra thế giới.
Thay đổi quan trọng trong cơ chế quản lý văn hóa của Hàn Quốc là xu hướng phi tập trung hóa. Xu hướng chuyển từ “Chính phủ ra quyết định và quản lý” sang việc “hợp tác giữa Chính phủ và các khu vực tư nhân”. Xu hướng này đảm bảo cho việc chính sách văn hóa không phải được áp đặt từ trên xuống mà chính sách phản ánh được nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội. Quá trình phân cấp, phân quyền trong quản lý văn hóa có thể làm cho khu vực văn hóa, nghệ thuật tự chủ và năng động hơn, đồng thời cũng là tiền đề cho sự phát triển lành mạnh của khu vực này.
Thay đổi về cơ chế đầu tư tài chính: Một trong những thay đổi cơ bản nhất trong chính sách tài chính của Chính phủ cho văn hóa, nghệ thuật là sự chuyển hướng tài trợ, từ tài trợ cho “bên cung” sang hỗ trợ cho “bên cầu”. Nói cách khác, trước đây, các trợ cấp của chính phủ chủ yếu dành cho các tổ chức nghệ thuật và nghệ sĩ, nhằm vào quá trình sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật. Ngày nay, Chính phủ quan tâm và tập trung nhiều hơn vào khán giả là những người thưởng thức/ tiêu thụ văn hóa. Hướng trọng tâm ưu tiên vào khán giả cũng khẳng định hướng tiếp cận đảm bảo phúc lợi xã hội của chính phủ Hàn Quốc, trong đó nhấn mạnh vào sự tham dự và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của mọi người dân.
Trọng tâm sử dụng ngân sách của Bộ VHTTDL Hàn Quốc năm 2022 được xác định là: đảm bảo khả năng cạnh tranh, tính liên tục và tính phổ biến của văn hóa Hàn Quốc; hỗ trợ thúc đẩy sự mở rộng của làn sóng Hallyu mới ra nước ngoài; tăng cường hoạt động sáng tác, công nghiệp hóa văn hóa nghệ thuật; giải quyết sự chênh lệch về văn hóa giữa các địa phương; mở rộng nền tảng các hoạt động thể thao và khôi phục du lịch nội địa. Lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật ở Hàn Quốc nhận được nhiều hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ. Ngân sách năm 2022 của Bộ VHTTDL được Chính phủ thông qua là 7.153 tỷ won (7 tỷ USD), tăng 289,3 tỷ won (280 triệu USD) so với năm 2021. Ngân sách theo lĩnh vực: văn hóa nghệ thuật là: 2.405 tỷ won (2,4 tỷ USD), công nghiệp nội dung: 1.123 tỷ won (1,1 tỷ USD), du lịch: 1.442,3 tỷ won (1,4 tỷ USD).
Chính phủ xây dựng cơ sở hạ tầng, hình thành nhiều quỹ cho văn hóa nghệ thuật, cải tạo và nâng cấp nhiều trung tâm biểu diễn văn hóa nhỏ, đảm bảo điều kiện vật chất cho các địa điểm biểu diễn và quảng bá, thúc đẩy văn hóa, nghệ thuật thông qua nhiều hoạt động, sự kiện. Hiện nay, Chính phủ Hàn Quốc tập trung nhiều hơn theo hướng hỗ trợ gián tiếp cho văn hóa, nghệ thuật. Nhà nước có các biện pháp ưu đãi để xã hội đầu tư và tiêu thụ văn hóa, nghệ thuật như: ban hành các quy định, giảm và miễn thuế cho việc mua bán các tác phẩm nghệ thuật và doanh thu từ các sự kiện văn hóa, nghệ thuật. Chính phủ Hàn Quốc tiến hành các phương thức đa dạng hóa các nguồn lực tài chính cho văn hóa để khuyến khích sự thích ứng với môi trường và chủ động phát triển của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật trong nước. Khuyến khích sự đầu tư, hỗ trợ cho nghệ thuật từ khu vực tư nhân và các cá nhân thông qua hoạt động tài trợ và từ thiện, đặc biệt là việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Hợp tác giữa các tổ chức văn hóa, nghệ thuật với các doanh nghiệp là một trong những khuynh hướng được ưu tiên hàng đầu.
2. Kinh nghiệm và gợi mở mô hình đầu tư cho Việt Nam
Một số kinh nghiệm rút ra
Từ kinh nghiệm một số quốc gia tiêu biểu đang dẫn dắt ngành CNVHST trên thế giới, có thể thấy, Chính phủ các nước đều tiến hành các biện pháp, chính sách ở các cấp độ khác nhau để hỗ trợ sự phát triển của các ngành CNVH, bao gồm việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, cung cấp hỗ trợ tài chính công trực tiếp hoặc gián tiếp cho các thiết chế văn hóa công, nghệ sĩ, tổ chức phi chính phủ, huy động nguồn lực và sự tham gia của các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân... trong việc tiếp cận các phương tiện sản xuất, phân phối các hoạt động văn hóa, hàng hóa và dịch vụ văn hóa, triển khai các chương trình đào tạo, ươm mầm nghệ sĩ trẻ tài năng, cơ chế bảo vệ bản quyền tác giả... Trong bối cảnh hậu công nghiệp và sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin và cách mạng 4.0, các nước đều quan tâm đầu tư chuyển đổi số, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế để tăng cường ảnh hưởng, mở rộng thị trường, nâng cao vị thế và hình ảnh quốc gia.
Một số yếu tố quan trọng và xu thế cần lưu ý trong quá trình xây dựng và điều chỉnh mô hình đầu tư cho văn hóa nhằm hỗ trợ sự phát triển của các ngành CNVHST bao gồm:
Trước hết, thay vì quan niệm đơn thuần chính sách văn hóa chỉ là chính sách tài trợ cho nghệ thuật, lấy nghệ sĩ - người sáng tạo làm trung tâm, thì CSVH trong thời đại ngày nay hướng đến công chúng, quan tâm đến thị hiếu của công chúng, đặt trọng tâm vào các loại hình văn hóa, nghệ thuật hiện đại, cần tập trung vào các khâu phân phối, phát hành, tiêu thụ.
Để phát triển các ngành CNVH thành công, cần có sự gắn kết giữa chiến lược phát triển các ngành CNVH, CNST với các chiến lược khác có liên quan, trở thành một bộ phận trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, gắn kết và có sự tương hỗ với các chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiến lược đào tạo nghề...
Có sự điều phối thống nhất các sáng kiến và hành động giữa các Bộ, ngành khác nhau trong Chính phủ vì mục tiêu chung, lý tưởng nhất là hình thành một cơ quan chỉ đạo liên ngành để huy động tối đa các nguồn lực nhằm phát triển các ngành CNVHST.
Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi, hệ sinh thái để các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Các doanh nghiệp sáng tạo được tiếp cận nguồn hỗ trợ tài chính phù hợp và khu vực tài chính nhận thức được cơ hội lợi nhuận khi đầu tư vào các ngành công nghiệp sáng tạo.
Cần thúc đẩy sáng tạo và đổi mới sáng tạo trong thanh niên để có nguồn cung về nhân lực sáng tạo trong tương lai và phải đảm bảo khả năng phát hiện và nuôi dưỡng các tài năng sáng tạo từ các cấp học phổ thông.
Công nhận, tận dụng và phát huy quan hệ tương hỗ giữa khu vực được Nhà nước trợ cấp và khu vực thương mại, giữa các ngành công nghiệp sáng tạo và các lĩnh vực văn hóa khác, đẩy mạnh hợp tác công - tư, nhằm thúc đẩy đời sống văn hóa đa dạng.
Đề xuất mô hình đầu tư cho Việt Nam
Nhà nước đóng vai trò là “nhà đầu tư xã hội” có thể là một hướng đi mới cho Việt Nam nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đất nước, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.
Mục tiêu của mô hình chính sách này lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam toàn diện vì sự phát triển bền vững. Con người vừa là nguồn vốn đầu tư, vừa là động lực cho sự phát triển. Trong mô hình “nhà đầu tư xã hội”, Nhà nước sẽ tập trung đầu tư cho công tác đào tạo, giáo dục một cách bài bản, có hệ thống, chú trọng từ giáo dục cho trẻ em, cho đến tạo điều kiện cho người trưởng thành được “học tập suốt đời”, giúp hình thành những con người có đủ kiến thức, năng lực, kỹ năng, tư duy sáng tạo, hỗ trợ các tài năng trẻ trở thành những nghệ sỹ chuyên nghiệp, tiến hành các chương trình khởi nghiệp, đặt hàng sáng tác các tác phẩm có chất lượng cao, đưa giáo dục nghệ thuật vào trường phổ thông để giúp định hướng thẩm mỹ, hình thành nhân cách, xây dựng khán giả và những khách hàng tương lai cho thị trường văn hóa, nghệ thuật...
Nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường pháp luật và hình thành hệ sinh thái văn hóa đa dạng nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công bằng về văn hóa cho mọi người. Trong môi trường văn hóa đó, quyền tự do sáng tạo được đảm bảo, Nhà nước có các chính sách an sinh, xã hội, bảo hiểm cho các nghệ sĩ, những người làm sáng tạo hoạt động trong và ngoài hệ thống công lập, có các chính sách ưu đãi, khuyến khích phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tham gia các hoạt động văn hóa.
Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế văn hóa lớn biểu tượng quốc gia, tiến hành các Chương trình mục tiêu quốc gia về bảo tồn di sản, bảo tồn và phát triển văn hóa du lịch các dân tộc thiểu số, Chương trình chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 trong các lĩnh vực văn hóa và sáng tạo, hình thành các Quỹ bảo trợ nghệ thuật, Quỹ phát triển điện ảnh... đặt hàng các tác phẩm đỉnh cao, bảo trợ các giải thưởng trong lĩnh vực văn hóa sáng tạo để định hướng thẩm mỹ và khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường khi chỉ chạy theo sản xuất các hàng hóa, dịch vụ có khả năng sinh lời, thị hiếu dễ dãi của đám đông. Về khía cạnh xã hội, văn hóa cần trở thành một hàng hóa công, phục vụ người dân, đảm bảo quyền hưởng thụ văn hóa của người dân các vùng miền một cách bình đẳng.
Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển, có sự liên kết, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Nhà nước có các chính sách ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế đất, hình thành các gói vay ưu đãi, tín dụng... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư và hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực CNVHST, từng bước hỗ trợ hình thành các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ văn hóa có thương hiệu quốc gia, tạo ra giá trị gia tăng lớn, được phân phối, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài.
Bên cạnh đó, Nhà nước hạn chế hoạt động quản trị và can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Lấy thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực, kết hợp điều tiết vĩ mô thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các nguồn lực, biện pháp, chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực CNVHST và địa bàn cần được ưu tiên tập trung đầu tư, mạnh dạn “xã hội hóa” một số nhiệm vụ của Nhà nước, mở ra một số lĩnh vực trước đây được coi là độc quyền Nhà nước (dịch vụ thư viện, bảo tàng, nhà hát...) để mở ra cho khu vực kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế.
Mô hình Nhà nước là nhà đầu tư xã hội dự kiến giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và công bằng xã hội, vừa cung cấp dịch vụ công về văn hóa cho công chúng, vừa giải phóng sức sáng tạo, sự năng động của thị trường và huy động được các nguồn lực xã hội đầu tư cho văn hóa, tạo xung lực cho các ngành CNVHST Việt Nam phát triển với các thương hiệu quốc gia, tiếp cận được thị trường quốc tế.
(tiếp theo số 521 và hết)
_________________
Tài liệu tham khảo
1. Cục Hợp tác quốc tế, Chuyên đề Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và triển khai các chính sách phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và bài học rút ra đối với Việt Nam, tháng 4-2022.
2. Chartrand, H. Hillman & McCaughey, Claire, Who’s to pay for the Arts: The international search for models of support, (Ai trả tiền cho nghệ thuật: tìm kiếm quốc tế về mô hình hỗ trợ), American Council for the Arts, N.Y.C, 1989.
3. DCMS, The Cultural White Paper (Sách trắng Văn hóa), 2016.
4. National Endowment for the Arts, How the United States funds the arts (Hoa Kỳ tài trợ cho nghệ thuật như thế nào), 11-2012.
5. Nguyễn Thị Thu Phương, Tác động của cải cách thế chế đối với phát triển công nghiệp văn hóa Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Văn hóa học, số 2 (24), 2016, tr.36-46.
6. Looseley, David, The Politics of Fun: Cultural Policy and Debate in Contemporary France, (Chính trị Giải trí: Chính sách văn hóa và tranh luận tại nước Pháp đương đại), Oxford and New York: Berg, 1995.
7. UNCTAD, Strengthening the creative industries for development in the Republic of Korea: Empowering small and medium-sized enterprises, jobs and sustainable development (Tăng cường các ngành công nghiệp sáng tạo vì sự phát triển tại Đại hàn Dân quốc: trao quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm và phát triển bền vững), 2017.
8. UNESCO, 2005 Convention Global Report: Reshaping policiesfor creativity:Addressing culture as a global public good (Báo cáo toàn cầu Công ước 2005: Tái định hình chính sách vì sự sáng tạo: Tiếp cận Văn hóa như một hàng hóa công toàn cầu), 2022.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
NGUYỄN PHƯƠNG HÒA
Nguồn: Tạp chí VHNT số 524, tháng 2-2023
.png)



.jpg)

.jpg)
