
Minh họa của Linh Giang
Bà lại trở mình, ghì chặt lấy tôi. Bà kể tiếp:
- Cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1968, đơn vị bố con chốt giữ một cung đường cửa ngõ thông 2 miền Bắc – Nam. Nhiệm vụ số một là đảm bảo giao thông thông suốt trong bất kỳ tình huống nào. Khẩu hiệu trên vách núi là “Địch đánh ta sửa ta đi, địch lại đánh ta lại sửa ta đi, địch đánh ta cứ đi!”.
Ngô Thị Phương được giao nhiệm vụ làm tổ trưởng tổ gác đường ở một đoạn đường trọng yếu, một bên là vực sâu, một bên là mái ta-luy cao 9m. Tổ gác đường có nhiệm vụ chắn barie, nổ súng hiệu báo cho đơn vị giải quyết hậu quả mỗi khi tắc đường và điều hành các đoàn xe quân sự vượt qua tọa độ lửa này.
Rồi cô Phương quen với một lái xe quân đội tên là Nam, người Kinh Bắc. Vì cô Phương ở tổ gác đường biệt lập với đơn vị nên bố con lúc đó rất tin tưởng cô ấy. Cô Phương nhanh nhẹn, đẹp người đẹp nết, thông minh tháo vát, dũng cảm lại mưu trí. Cô ấy đã xử lý nhiều tình huống cứu nguy cho nhiều đoàn xe. Cả tuyến đường ra trận nhiều người biết đến cô Phương.
Mẹ còn nhớ, vào một ngày nắng đẹp của Trường Sơn, đồng chí lái xe Nam và cô Phương đến hầm chỉ huy gặp bố con. Họ đã báo cáo với đại đội trưởng tất cả những gì đã xảy ra giữa hai người. Cô Phương đã có thai được 3 tháng. Cô Phương khóc và xin đại đội trưởng tha thứ. Còn anh lính lái xe thì khẩn khoản đề nghị với đại đội trưởng thông cảm, bởi vì đêm nay họ phải chia tay vào xa tận chiến trường B2.
- Chúng em yêu nhau, yêu chân thành. Anh vừa là thủ trưởng, vừa là người anh bao dung, ghi nhận cho chúng em. Cuộc chiến đấu còn ác liệt, ngày trở lại gặp Phương còn xa. Tất cả em trông cậy vào anh và đơn vị. Em chỉ có một đề nghị để cho Phương sinh mẹ tròn con vuông và anh gửi mẹ con Phương về Kinh Bắc giúp em. Em xin lạy tạ anh trước!
Bố con đỡ người chiến sĩ đứng dậy và ân cần dặn:
- Đồng chí cứ an tâm lên đường. Phương sẽ có đơn vị lo liệu. Đây là trách nhiệm và tình cảm của người lính đối với người lính.
Cả Nam và Phương đều hết sức cảm động, biết ơn sự độ lượng của đại đội trưởng. Đêm ấy, Nam đã tạm biệt Phương và đơn vị thanh niên xung phong đưa hàng vào Nam kịp cho cuộc tổng tiến công mùa Xuân 68.
Được sự yêu thương và đùm bọc của đơn vị, cuối năm 1968, cô Phương đã sinh được một bé gái. Con chưa đầy hai tháng tuổi thì một tin sét đánh do đồng đội của Nam báo cho đại đội trưởng và Phương. Nam đã anh dũng hy sinh khi đưa hàng tới địch, mãi mãi không thể trở về. Cô Phương tưởng chừng không đứng vững được nữa nếu như không có sự quan tâm đùm bọc của đại đội trưởng và toàn đơn vị, vừa thương Nam, vừa thương con.
Lúc đầu, cô Phương đặt tên con gái là Trường Sơn. Mới được ba tháng thì tai họa lại ập xuống đơn vị. Bọn máy bay Mỹ dã man ném bom vào doanh trại. Cô Phương bị trúng một mảnh bom. Vết thương quá nặng, khi tổ cứu thương và đội cứu sập chạy về đến doanh trại thì cô Phương đã tắt thở, tay vẫn ôm chặt Trường Sơn. Cô ấy đem cả thân mình che chở cho con.
Cả đơn vị đau đớn tiễn ba đồng chí ở tổ nuôi quân về nơi an nghỉ trong đó có cô Ngô Thị Phương, cô để lại bé Trường Sơn còn thơ dại. Sự mất mát đau thương quá lớn đối với Trường Sơn cũng như toàn đơn vị.
Mấy ngày sau, bố con gầy xọp hẳn đi, mắt trũng xuống. Chi bộ đơn vị đã cử người thay cô Phương chăm sóc cho Trường Sơn – đứa con liệt sĩ mất cả cha lẫn mẹ. Chi bộ đã cử mẹ trực tiếp chăm sóc bé. Đó là một nhiệm vụ rất khó khăn. Song, mẹ vừa thương cô Phương, vừa quý trọng tấm lòng của đại đội trưởng và sự tin cậy của chi bộ, của đơn vị.
Bọn giặc Mỹ đánh phá ác liệt, mãi đến năm 1971, đơn vị quyết định cử mẹ ra miền Bắc học chuyên nghiệp và đưa Trường Sơn về với bà ngoại ở phố Hàng Thao, Nam Định. Cùng lúc đó, đơn vị bổ sung cho Ban 67 đi sâu vào đường 559. Đại đội trưởng Trần Đức được điều sang quân đội, bổ sung cho sư đoàn chủ lực vào chiến trường B2.
Trước khi chia tay để mẹ ra Bắc, đại đội trưởng căn dặn, “Bằng bất cứ giá nào Lan phải dưa được bé Trường Sơn về giao lại cho gia đình. Đây là trách nhiệm và tình cảm của đơn vị ta. Anh rất tin tưởng ở Lan”.
Mẹ đã vượt qua lửa đạn từ Trường Sơn về tới Nam Định. Thành phố lúc này cũng bị đổ nát bởi sự ném bom của giặc Mỹ. Nhiều phố xá mẹ không còn nhận ra. Đến Hàng Thao thì hầu như cả dãy phố bị phá sập hoàn toàn. Một tấm bia căm thù dựng ở đầu phố “Đời đời khắc sâu tội ác của giặc Mỹ”. Chúng ném bom phố Hàng Thao năm 1966. Theo địa chỉ cô Phương để lại, số nhà bà Năm - mẹ cô Phương không còn nữa. Mẹ đưa bé Trường Sơn đến gặp lãnh đạo khu phố. Họ cho biết bà Năm cũng đã hy sinh trong khi đang bám trụ sản xuất trong nhà máy Dệt Nam Định.
Thế là hết. Gia đình cô Phương mất tất cả. Một tình thương rộng lớn trỗi dậy trong lòng mẹ. Bé Trường Sơn sẽ trông cậy vào đâu? Quê bố Nam thì mẹ không có địa chỉ. Mẹ rất buồn và thất vọng.
Được sự giúp đỡ của các đồng chí khu phố 4, khu đội đã giới thiệu mẹ sang sông bên làng Vân, nơi đó còn có anh em với bà Năm, vì mẹ đã kể hết đầu đuôi câu chuyện về bé Trường Sơn cho các đồng chí ấy nghe. Các đồng chí lãnh đạo khu phố và khu đội rất thông cảm với mẹ và thương cháu bé, còn cho nhiều quà nữa.
Mẹ đã đưa Trường Sơn đến gặp ông anh của bà Năm tên là Ngô Văn Học. Sau khi mẹ trình bày và có ý giao Trường Sơn cho ông, ông Học và gia đình đã từ chối với lý do “Gia đình họ Ngô nề nếp, không có con gái chửa hoang như vậy! Có lẽ chị nhầm. Hay là chị trót dại, rồi lợi dụng tình cảnh chiến đấu của cháu tôi. Bây giờ nó hy sinh rồi, biết hỏi ai mà tin được. Đơn vị cũng không có chứng cứ gì”. - “Dạ thưa, cháu là nhân chứng sống ạ”. Mẹ đã cố thuyết phục nhưng cả hai ông bà Học một mực từ chối. Bị xúc phạm, mẹ đành gạt nước mắt lủi thủi đưa bé Trường Sơn về quê.
Mẹ đưa một đứa trẻ hơn 2 tuổi về cũng không nghĩ sẽ ăn nói làm sao với ông bà, họ hàng. Trong tay lại không có một thứ giấy tờ tùy thân nào về bé Trường Sơn. Mẹ nghĩ đơn giản là về Nam Định sẽ giao được cháu chứ không nghĩ tới tình huống này. Thương cho Trường Sơn và thương cho chính mình.
Mẹ kể đến đây, tôi khóc nấc lên ôm chặt lấy bà:
- Mẹ ơi! Rồi mẹ giải quyết thế nào? Con thương mẹ quá!
Bà xúc động kể tiếp:
- Trên đường về quê, mẹ đã phác thảo ra một kế hoạch thật táo bạo để bảo vệ Trường Sơn. Lúc này mẹ nghĩ đến bố Đức và hình ảnh bố Đức xuất hiện cũng xúc động như mẹ. Bố động viên khích lệ mẹ, cứ làm theo kế đó...
Tin mẹ về truyền đi cả làng. Đến đầu ngõ cả nhà ra đón. Ông bà, cô dì chú bác mừng vui. Nhưng khi ông ngoại thấy mẹ bế Trường Sơn, ông khựng lại, mặt đanh, mắt trừng trừng nhìn mẹ rồi bỏ vào nhà. Ông rất gia giáo nề nếp. Truyền thống của gia đình và dòng họ Hoàng không cưới xin mà đã có con là rất rầy rà với ông. Mẹ tủi thân muốn òa lên khóc.
Bà ngoại hai hàng nước mắt ròng ròng. Có lẽ vừa mừng mẹ còn sống trở về, vừa thương cho hoàn cảnh trớ trêu.
- Lan, đưa cháu đây cho mẹ. Đi tắm rửa đi, bụi đường bám đầy vào tóc con rồi. Tất cả đã có mẹ. Mẹ sẽ nói chuyện với bố và họ hàng cho con.
Thấy bà nói vậy, mẹ yên tâm một phần.
Tối hôm đó, cơm nước xong, mọi người đã ra về, chỉ còn mẹ và ông bà. Mẹ gần như vừa van xin, vừa cầu cứu:
- Thưa bố mẹ! Chúng con đã yêu nhau ngay trên chiến hào đánh Mỹ. Chúng con yêu nhau đúng đắn, được đơn vị đồng ý và tổ chức cho chúng con. Vì anh ấy được bổ sung cho quân đội đi sâu vào tuyến trong nên không về cùng con được. Dạ thưa, ảnh anh ấy đây ạ!
Rất may mẹ yêu thầm bố con bấy giờ, nên đã lấy trộm của bố con tấm ảnh. Không ngờ tấm ảnh ấy lại là bùa hộ mệnh.
- Anh Đức là Đảng viên. Có điều bố mẹ thông cảm cho chúng con, vì thời chiến không viết thư về xin phép trước được ạ. Bố mẹ tha thứ cho chúng con! Con có mang ba tháng thì anh Đức vào B2. Con cũng không nhận được thư từ gì. Bé Trường Sơn là giọt máu của anh ấy, gia đình anh Đức đã bị bom Mỹ giết hại cả nhà ở trận Hàng Thao năm 1966. Cả nhà chỉ còn có mình bố của Trường Sơn. Dạ thưa, tên bé Trường Sơn là các cô các chú ở đơn vị đặt cho. Bố Đức dặn khi sinh con để anh ấy đặt tên. Thế là con cứ chờ...
- Thôi đi ông! Con nó đã trình bày như vậy, ta cũng thông cảm. Chung quy là chúng nó cũng vì đánh giặc cứu nước. Ông nên nói lại với họ hàng thông cảm, cứ để mẹ con nó ở nhà. Tôi tin là bố Đức giải phóng xong miền Nam thế nào nó cũng về.
Ông trầm ngâm và cứ lắng nghe mẹ nói. Cuối cùng ông nhìn mẹ, nhìn Trường Sơn.
- Thôi được. Con cho cháu đi nghỉ đi kẻo mệt.
Mẹ thở phào như trút được gánh nặng, có lẽ ông là người lính Điện Biên năm xưa cho nên cũng có thể ông thông cảm cho con của người lính.
Thế là mẹ bỏ học lớp trung cấp kế toán ở Vĩnh Phú, ở lại cùng ông bà nuôi bé Trường Sơn và viết thư cho bố Đức kể hết đầu đuôi câu chuyện. Thư đi thì có, thư về thì không. Mẹ cứ chờ đợi...
Mẹ ở quê được hơn một năm, ông bà vẫn thương mẹ. Nhưng mẹ không sao chịu được sự đàm tiếu của dân làng, bạn bè và kể cả anh em họ hàng. Họ độc mồm độc miệng “Ngữ ấy chửa hoang rồi đơn vị họ đuổi về, đâu có được đi học. Làm gì có chồng tên là Đức là điếc gì. Khéo dựng chuyện để khỏi dân làng chê cười. Cứ tự hào gia đình gia giáo, nề nếp. Bây giờ con gái chửa hoang, hết chỗ nói!”.
Cứ nghe người ta nói vậy, ông ngoại con lại càng thêm buồn rầu. Tuy ông không nói ra nhưng đó là nỗi đau riêng của ông và gia đình. Mẹ thương ông quá chừng mà không biết làm thế nào được.
Đầu năm 1973, mẹ xin vào làm việc ở nhà máy Dệt Nam Định. Mẹ được bố trí nửa gian nhà tạm, được ưu tiên vì là chiến sĩ thanh niên xung phong. Mẹ đưa cả Trường Sơn cùng đi. Lúc này mẹ không thể xa rời nó được.
Mẹ còn nhớ hôm đó, vào một buổi sáng tháng 5 năm 1973, ông ngoại của bé Trường Sơn lên thăm. Ông lễ mễ quẩy hai yến gạo, một con gà trống to, mấy chục quả trứng, một ít tôm tép khô. Trông ông vẫn nhanh nhẹn, dáng vẻ rất vui.
- Mừng lắm rồi con ơi. Bố Trường Sơn đã có thư về, cả nhà rất mừng, bố phải lên báo tin này cho mẹ con con. Có điều nhà mừng quá, có phạm luật bưu điện là bóc thư trước của con, con thông cảm cho bố mẹ.
Mẹ đỡ phong thư từ tay ông, vừa mừng, vừa lo. Không biết bố Đức viết gì. Mừng quá đến trào nước mắt. Mẹ thầm cảm ơn bố Đức. Bố Đức tốt quá, đã cứu nguy cho mẹ và bé Trường Sơn!
Thư bố viết, nào là xin lỗi ông bà đúng như mẹ trình bày trước đây. Tất cả bây giờ con gửi gắm vào ông bà, giúp đỡ động viên vợ con cho con, con biết ơn bố mẹ nhiều lắm. Ngày toàn thắng không còn xa nữa, con sẽ về với bố mẹ.
Trong thư có cả ảnh bố Đức với một số đồng đội, đội mũ tai bèo, trông rất hùng dũng. Phía sau tấm ảnh là cả một góc đại ngàn Trường Sơn. Bố con dặn, mẹ ra ủy ban xã làm giấy khai sinh. Họ tên bố là Trần Đức - 1943, mẹ Nguyễn Thị Lan 1946. Sinh tại trạm quân y tiền phương. Đặt tên bé Trường Sơn là...
Kể đến đây bà dừng lại. Bà xúc động thật sự, nước mắt nóng hổi của bà rơi trên gò má tôi.
- Là gì mẹ?
- Là ... - Bà nghẹn ngào - là Trần Mai Phương Thảo đó con!
Tôi ghì chặt lấy mẹ mà khóc nức nở.
- Sự thật đó sao mẹ? Sao bấy lâu nay mẹ không nói cho con biết. Mẹ đã vì con mà hy sinh cả cuộc đời xuân sắc. Sao mẹ lại không sinh em nữa?
- Chưa hết đâu con! Việc làm của bố Đức là cao thượng vì đứa con của người lính. Mẹ cũng đinh ninh là bố Đức với mẹ đóng kịch vậy thôi, để bảo vệ con. Ai dè, cuối năm 1975 miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, bố Đức trở về và sống với mẹ con mình. Ông bà mừng vui khôn xiết. Bố Đức về, con gọi bố ngay và rất quấn bố mới kỳ lạ! Bao nhiêu ngày tháng, mẹ sống âm thầm trong lo âu, thấp thỏm, đợi chờ và mẹ đã có hạnh phúc thực sự.
Ngày tháng trôi qua, mẹ những tưởng sinh cho con một đứa em, dù là gái hay trai. Thế mà mẹ đã không làm được điều đó cho con và bố Đức. Điều khó đó lại là về phía mẹ. Bác sĩ kết luận, mẹ đã nhiễm chất độc da cam. Nếu có sinh thì cũng dị tật, lại càng làm khổ bố và con. Bởi thế, bố mẹ quyết định không sinh em cho con nữa. Mẹ thương bố vô cùng. Bố thì luôn động viên, an ủi mẹ rằng “Thì chúng ta đã có Phương Thảo rồi còn gì. Em đừng suy nghĩ mà ảnh hưởng sức khỏe. Đối với anh, có em, có Phương Thảo là hạnh phúc lắm rồi!
Có lần cô Phượng từ Sài Gòn ra thăm, ở lại nhà ta mấy ngày. Đêm mẹ với cô Phượng ngủ chung, mẹ đã thành thật tâm sự. Chỗ chị em gái lại cùng là chiến sĩ thanh niên xung phong thông cảm với nhau, mẹ đề nghị “Lan trả anh Đức cho Phượng đấy! Phượng sẽ đẻ cho anh Đức một đứa con, còn mình có Phương Thảo là đủ!”. Cô Phượng bật dậy mắng mẹ té tát.
- Bà điên à? Mặc dù tôi biết bà nói chân thành. Tuy tôi vẫn còn yêu ông Đức nhà bà nhưng không được là không được. Cứ coi như tôi đẻ ra Phương Thảo cho ông bà đó, được chưa? Phượng khóc.
Rồi cô Phượng và mẹ cùng khóc. Cô Phượng nói với con “giá mà...” ở trên tàu là như vậy đó.
Nghe mẹ kể đến đây, tôi hết chịu nổi rồi. Tôi vùng dậy chạy xuống chỗ bố tôi đang nghỉ.
- Bố ơi, tại sao những người tốt nhất lại phải chết? Lại phải vất vả cơ cực như vậy bố?
- Vì những người tốt họ không sợ chết, họ dám chịu trách nhiệm. Họ có tình người, tình đồng đội và vì họ còn có một lý tưởng cao cả đó con!
- Tại sao bố mẹ lại giấu con?
- Bình tĩnh đi con. Mẹ Lan nói gì nào?
- Mẹ bảo con không phải bố mẹ đẻ ra!
- Đúng như vậy. Bố mẹ con đều là liệt sĩ. Có điều rất ân hận là bố chưa làm thủ tục để con là con của hai liệt sĩ, con thứ lỗi cho bố. Vì bố không muốn để con là đứa trẻ mất bố, mất mẹ.
- Bố! Bây giờ thì khỏi cần đi bố. Có bố Đức, mẹ Lan là con sung sướng, hạnh phúc lắm rồi. Coi như bố Nam, mẹ Phương vẫn còn sống ở bên con. Con biết ơn bố suốt đời. Bố mẹ đã vì con, vì bố mẹ đã không sinh ra con mà hy sinh, chịu đựng vất vả bấy lâu nay. Nhưng bố ơi, vì sao lại có sự đổ vỡ này hở bố? Có phải tại con không? Tôi vừa hỏi, vừa khóc vì ân hận và thương bố vô hạn.
Cả một cuộc đời hy sinh phấn đấu, vào sinh ra tử, để đổi lấy tháng ngày cơ cực hôm nay. Không nhà không cửa, và không...
- Không tại ai cả! Tại bố, tại năng lực và trình độ của bố... Con biết không? Để có độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc như hôm nay, hàng vạn những chiến sĩ đã phải nằm lại chiến trường, không bao giờ trở về, trong đó có bố Nam, mẹ Phương con. Còn hiện nay, để xóa bỏ nghèo nàn, làm cho dân giàu nước mạnh, sự hy sinh của những cán bộ như bố là tất yếu chứ con. Phải có đổ vỡ mới có thành công con ạ! Đã đến lúc sức khỏe của bố không cho phép và những người cán bộ như bố không thể đảm đương được công việc nữa rồi. Tổ quốc có giàu mạnh hay không đang trông chờ vào thế hệ các con. Con có hiểu không?
- Dạ! Nhưng đối với con, còn bố là còn tất cả. Bố bình tâm đi bố. Con sẽ làm lại từ đầu, nhất định gia đình ta lại hạnh phúc, vui vẻ như ngày nào. Con nguyện xứng đáng mãi mãi là con của bố, con của người lính!
- Bố tin ở con và tin vào cuộc sống hôm nay!.
(tiếp theo số 616 và hết)
Truyện ngắn của PHAN THÙY NINH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 619, tháng 9-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
