Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ trọng tâm trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Trong những năm qua, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã đạt được những thành tựu cũng như bài học kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, đồng thời, đề ra những định hướng, giải pháp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chủ tịch nước Lương Cường dự “Ngày hội Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc” năm 2025 - Ảnh: Tuấn Minh
Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam là tổ chức hành chính thuộc Bộ VHTTDL, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về văn hóa các dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước; quản lý nhà nước trực tiếp đối với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam theo quy định của pháp luật; quản lý các dịch vụ công về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.
1. Thành tựu, đóng góp nổi bật về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
Giai đoạn 2020-2025, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc về xây dựng và ban hành văn bản, chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc.
Tham mưu, xây dựng và triển khai các dự án, đề án, chiến lược phát triển văn hóa
Chủ trì xây dựng và triển khai thực hiện Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”; xây dựng, ban hành 5 Đề án: “Bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay”; “Tổ chức định kỳ Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số theo khu vực và toàn quốc giai đoạn 2021-2030”; “Chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2030”; “Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch, giai đoạn 2021-2030”; “Bảo tồn và phát huy giá trị văn học dân gian của các dân tộc thiểu số đến năm 2030”.
Xây dựng Kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 và Kết luận của Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc; Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28-1-2022 của Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; Ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 28/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc giai đoạn 2022-2025; Phối hợp với Ủy ban Dân tộc xây dựng và ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình phối hợp giữa Bộ VHTTDL với Ủy ban Dân tộc năm 2022.
Xây dựng hệ thống văn bản pháp lý phục vụ công tác quản lý
Hoàn thành trình Bộ VHTTDL ban hành Thông tư số 05/2024/TT-BVHTTDL ngày 17-7-2024 quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng và định mức chi phí dịch vụ hỗ trợ chi phí sinh hoạt hằng ngày cho đồng bào các dân tộc được mời tham gia hoạt động tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; hoàn thiện trình ban hành 3 Thông tư: Thông tư quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, định mức kinh tế - kỹ thuật bảo tồn, phục dựng, tái hiện và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc; sưu tầm, bảo quản, trưng bày giới thiệu các tài liệu, hiện vật văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc Việt Nam; bảo tồn làng, bản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một; Thông tư quy định tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng, định mức kinh tế - kỹ thuật tổ chức các chương trình văn hóa, nghệ thuật, ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch phục vụ đồng bào đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn tại xã đảo, huyện đảo; Thông tư quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật cung cấp dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước tổ chức các sự kiện, hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Đẩy mạnh tổ chức các hoạt động văn hóa, bảo tồn, truyền dạy
Tổ chức các ngày hội, liên hoan văn hóa, thể thao, du lịch khu vực và toàn quốc như Ngày hội VHTTDL các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, năm 2023; Liên hoan trình diễn trang phục các dân tộc thiểu số Việt Nam khu vực phía Bắc lần thứ I năm 2022; Liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc Tày, Nùng, Thái lần thứ VII năm 2024...; Hội nghị gặp mặt nghệ nhân và những người có nhiều đóng góp trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số.
Tuần lễ “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam” năm 2024 - Ảnh: Nam Nguyễn
Chủ trì tổ chức bảo tồn 15 lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch. Tổ chức hơn 26 lớp tập huấn, truyền dạy về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; tổ chức đội tuyên truyền văn hóa biểu diễn phục vụ đồng bào chiến sĩ tại các tỉnh biên giới; tổ chức xây dựng các mô hình bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch đối với đồng bào dân tộc thiểu số; khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất ít người; tổ chức bảo tồn lễ hội truyền thống tại các địa phương khai thác, xây dựng sản phẩm phục vụ phát triển du lịch...
Xây dựng nội dung hỗ trợ các chương trình nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một; tổ chức lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, truyền dạy văn hóa phi vật thể tại các tỉnh; tổ chức xây dựng hơn 20 câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian tại các thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng di dân tái định cư tại các tỉnh; tổ chức chương trình tuyên truyền, quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số; thực hiện chương trình phòng, chống ma túy qua các lớp tập huấn tuyên truyền phòng, chống ma túy cho trưởng thôn, bản, người có uy tín trong cộng đồng và đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh; thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: sản xuất và cấp phát ấn phẩm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá các mô hình tiêu biểu về bảo tồn văn hóa truyền thống trong xây dựng nông thôn mới; bảo tồn giá trị văn hóa tiêu biểu tại làng, bản văn hóa truyền thống của các dân tộc gắn với phát triển du lịch...
Tổ chức xây dựng 6 mô hình, 12 chương trình nghiên cứu, khôi phục, bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; bảo tồn 5 nghề thủ công truyền thống; thực hiện hơn 20 chương trình tuyên truyền trên Đài Truyền hình Việt Nam. Đồng thời, phối hợp góp ý, xây dựng các báo cáo, chính sách, đề án với các bộ, ban, ngành Trung ương và các đơn vị liên quan về lĩnh vực văn hóa dân tộc; tham mưu cho Lãnh đạo Bộ VHTTDL về lĩnh vực văn hóa dân tộc của ngành.
Vận hành, khai thác, phát triển Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam
Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (gọi tắt là Làng) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam. Trong những năm qua, Làng đã trở thành “ngôi nhà chung” vừa gìn giữ, bảo tồn, vừa giao lưu, trải nghiệm và quảng bá bản sắc văn hóa, là nơi cộng đồng dân tộc về tham gia tổ chức, trình diễn, giới thiệu và tái hiện đời sống văn hóa một cách chân thực, sinh động, trở thành không gian văn hóa sống động, đặc thù, phản ánh nền văn hóa đa dạng, phong phú của 54 dân tộc Việt Nam.
Du khách trải nghiệm không gian văn hóa cùng đồng bào đang sinh hoạt tại Làng VH-DL các dân tộc Việt Nam - Ảnh: Tuấn Minh
Hằng năm, Làng tổ chức 3 sự kiện văn hóa lớn: Ngày hội “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc”; Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19-4) và Tuần “Đại đoàn kết dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam”. Các sự kiện trên quy tụ hàng nghìn lượt đồng bào các dân tộc từ khắp mọi miền Tổ quốc về tham gia giao lưu, tôn vinh và lan tỏa bản sắc dân tộc. Với phương châm “để chủ thể văn hóa tự giới thiệu về mình”, thực hiện Quy chế phối hợp giữa Bộ VHTTDL và các địa phương huy động đồng bào về tham gia hoạt động tại Làng hiện có 16 nhóm cộng đồng các dân tộc luân phiên tham gia hoạt động thường xuyên tại “ngôi nhà chung”. Tại đây, cộng đồng các dân tộc tổ chức các hoạt động chuyên đề, hoạt động theo tháng, tuần, cuối tuần, hằng ngày với đa dạng nội dung chương trình như tổ chức các lễ nghi, trình diễn nghề truyền thống, nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực… qua đó, các giá trị văn hóa không chỉ được giới thiệu mà còn tiếp tục được thực hành, duy trì và bảo tồn, không những thế, công chúng trong và ngoài nước vừa được thụ hưởng văn hóa, vừa tiếp cận gần hơn với văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
2. Một số bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn trong quá trình quản lý, hoạt động, Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã rút ra một số bài học kinh nghiệm.
Một là, đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là “đối tượng được hỗ trợ” mà còn là chủ thể trung tâm của quá trình bảo tồn và phát huy văn hóa. Người làm công tác quản lý văn hóa chỉ đóng vai trò “hỗ trợ” không áp đặt, không “diễn thay” đồng bào. Việc duy trì, thực hành, truyền dạy và sáng tạo văn hóa đều bắt nguồn từ cộng đồng, nếu không có sự tham gia tích cực của đồng bào các dân tộc, mọi chính sách, đề án sẽ khó thực hiện, khó bền vững. Thực tiễn tại Làng cho thấy, việc huy động đồng bào các dân tộc luân phiên về tham gia hoạt động thường xuyên tại đây đã góp phần “thổi hồn” vào không gian văn hóa, đó chính là hình thức bảo tồn văn hóa hiệu quả nhất. Đồng bào sinh hoạt, giới thiệu phong tục tập quán, biểu diễn dân ca dân vũ, trình diễn nhạc cụ… như chính ngôi nhà của mình ở địa phương. Qua đó, văn hóa được giữ gìn, du khách được tìm hiểu, trải nghiệm và quảng bá văn hóa.
Hai là, bảo tồn phải gắn liền với phát triển kinh tế. Khi văn hóa gắn với nguồn sinh kế, mang lại thu nhập, mang lại giá trị kinh tế thì việc bảo tồn mới thực sự bền lâu. Khi các sản phẩm thủ công, trang phục truyền thống, sản vật dân tộc, những làn điệu dân ca, dân vũ… thu hút người mua, người xem, từ đó bản sắc vừa được giữ gìn, vừa có nguồn thu nhập. Tại nhiều nơi, đồng bào phát triển mô hình du lịch cộng đồng, vừa trải nghiệm sinh hoạt văn hóa của đồng bào, vừa phát triển kinh tế, du lịch. Tại “ngôi nhà chung”, trong khuôn khổ các hoạt động của sự kiện thường niên hay điểm nhấn chuyên đề hằng tháng cũng là dịp giới thiệu sản phẩm thủ công, trang phục, ẩm thực, sản vật dân tộc, góp phần tạo đầu ra kinh tế cho đồng bào. Đến Làng, du khách có thể hấp dẫn bởi những tấm vải dệt zèng của dân tộc Tà Ôi, những sản phẩm thủ công đan lát của đồng bào Cơ Tu, thưởng thức hương vị của ca cao, cà phê của đồng bào Ê Đê hay ẩm thực hấp dẫn của dân tộc Mường, Thái, Tày… qua đó tạo thêm nguồn thu nhập cho bà con.
Ba là, kết hợp giữa bảo tồn truyền thống với ứng dụng sức mạnh của công nghệ số trong bảo tồn văn hóa. Trong xu thế công nghệ phát triển mạnh mẽ, tận dụng thành tựu công nghệ để “nâng tầm” bản sắc, để văn hóa truyền thống tiếp cận dễ dàng, sinh động và hấp dẫn hơn. Số hóa các giá trị văn hóa (ngôn ngữ, trang phục, lễ hội, kiến trúc...), tạo mô hình tương tác 3D/VR… góp phần quan trọng để các giá trị văn hóa sống động hơn, tiếp cận rộng rãi hơn tới công chúng nhất là giới trẻ.
Bốn là, phối hợp liên ngành, liên vùng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số. Sự hợp lực, phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương - địa phương và cộng đồng các dân tộc là yếu tố then chốt góp phần thực hiện hiệu quả, bền vững và thành công trong sự nghiệp gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc. Thực tiễn triển khai các chương trình phối hợp giữa Bộ VHTTDL với Ủy ban Dân tộc; giữa Bộ VHTTDL với các địa phương trong việc huy động đồng bào các dân tộc về tham gia các hoạt động tại Làng đã chứng minh sức mạnh của sự liên kết.
3. Định hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
Trong bối cảnh đất nước đang bước sang giai đoạn phát triển và hội nhập sâu rộng, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số đòi hỏi những tư duy mới, cách làm mới và bước đi đột phá. Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam xác định một số định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới.
Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, hoạch định chính sách
Tập trung nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách cụ thể, phù hợp với đặc điểm vùng miền, dân tộc, ngôn ngữ, lễ hội, tín ngưỡng...; chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội dân gian, tri thức bản địa và ngôn ngữ dân tộc thiểu số; gắn bảo tồn với phát triển kinh tế, xã hội bền vững; xây dựng và ban hành chính sách đầu tư cho hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, bảo đảm đồng bộ, khả thi, gắn với đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tiễn; xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, trong đó ban hành tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống, làm cơ sở phân bổ ngân sách hiệu quả, tránh hình thức; ban hành chính sách hỗ trợ nghệ nhân, người nắm giữ, truyền dạy tri thức trong hoạt động bảo tồn văn hóa truyền thống tại cộng đồng.
Thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong quản lý, bảo tồn
Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong hoạt động quản lý, tuyên truyền, giáo dục văn hóa, góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước và tiếp cận của công chúng. Thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa dân tộc, xây dựng cơ sở dữ liệu và số hóa các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam bao gồm hệ thống thông tin, hình ảnh, ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghệ thuật dân gian… nhằm tạo kho tư liệu mở phục vụ nghiên cứu, giáo dục và quảng bá, từng bước hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu số dùng chung toàn ngành; tích hợp dữ liệu với các nền tảng quốc gia về văn hóa góp phần quan trọng cho quá trình chuyển đổi số ngành Văn hóa - một định hướng dài hạn và bền vững phục vụ công tác nghiên cứu, quy hoạch và hoạch định chính sách; hỗ trợ phát triển du lịch văn hóa và giáo dục thế hệ trẻ về bản sắc dân tộc.
Phát triển nguồn nhân lực và nghệ nhân kế cận
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực văn hóa dân tộc, thay đổi tư duy từ làm văn hóa sang quản lý nhà nước về văn hóa, kiện toàn bộ máy quản lý văn hóa dân tộc từ Trung ương đến cơ sở, đảm bảo đủ năng lực và chuyên môn. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa dân tộc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, trong đó quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số có phẩm chất, năng lực và triển vọng phát triển. Xây dựng cơ chế đãi ngộ, vinh danh nghệ nhân dân gian, nghệ nhân trẻ và các cá nhân có đóng góp nổi bật trong bảo tồn văn hóa dân tộc. Tổ chức các lớp truyền dạy, tập huấn chuyên đề tại cộng đồng để lưu giữ tri thức dân gian.
Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, phối hợp liên ngành, liên vùng
Thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; tiếp tục phát huy sức mạnh phối hợp liên ngành, liên vùng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số; phát huy vai trò trung tâm trong kết nối, phối hợp giữa các cơ quan, địa phương để triển khai các chương trình, đề án, hoạt động về văn hóa dân tộc nhất là các chương trình mục tiêu quốc gia.
Phát triển mô hình bảo tồn văn hóa gắn với du lịch cộng đồng
Xây dựng mô hình điểm về bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống gắn với phát triển kinh tế, xã hội bền vững. Thí điểm triển khai các mô hình tại một số địa phương có điều kiện thuận lợi về hạ tầng, du lịch, sinh hoạt văn hóa đặc sắc, từ đó tổng kết, nhân rộng điển hình trong toàn quốc. Kết nối giữa bảo tồn - giáo dục - du lịch - kinh tế - truyền thông nhằm phát huy hiệu quả bền vững.
Đổi mới truyền thông quảng bá lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc
Truyền thông quảng bá giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trên nền tảng số có sức lan tỏa mạnh mẽ; phát triển nội dung sáng tạo trên các nền tảng mạng xã hội bằng hình thức video ngắn, phóng sự trải nghiệm, bản tin; kết nối với các kênh truyền thông đại chúng, influencer, nhà sáng tạo nội dung phối hợp quảng bá giá trị bản sắc qua các chiến dịch truyền thông, series trải nghiệm bản sắc, livestream giao lưu nghệ nhân khám phá sắc màu văn hóa… góp phần lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc trong cộng đồng; tổ chức cuộc thi ảnh, video về văn hóa dân tộc với đa dạng đối tượng tham gia nhất là giới trẻ nhằm tạo ra nguồn nội dung phong phú và lan tỏa sâu rộng trong xã hội.
Trong giai đoạn mới, bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số cần những cách làm sáng tạo, đồng bộ và bền vững. Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới tư duy, phát huy nội lực cộng đồng, ứng dụng công nghệ và tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng trong bảo tồn, gìn giữ và lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa các dân tộc Việt Nam trong thời đại số.
TS TRỊNH NGỌC CHUNG
Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam
Nguồn: Tạp chí VHNT số 615, tháng 8-2025