• Văn hóa > Di sản

Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch tại Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định rõ định hướng: “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch; đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”. Với bề dày lịch sử văn hóa lâu đời, sở hữu kho tàng di sản phong phú trong đó có nhiều di sản đã được xếp hạng, những năm gần đây, tỉnh Hưng Yên đang đẩy mạnh phát triển theo hướng quan tâm đầu tư, xúc tiến thương mại gắn với phát huy tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, làng nghề, văn hóa và môi trường sinh thái, góp phần khẳng định vị thế là điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch văn hóa Việt Nam.

Bảo tồn và phát huy giá trị Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc 15 năm cuối đời (1954-1969), lưu giữ 13 di tích bất động sản, hàng nghìn tài liệu, hiện vật cùng cảnh quan gần 15ha gồm vườn cây và ao cá. Trong hơn nửa thế kỷ, Khu Di tích đã nỗ lực bảo tồn nguyên vẹn, đồng thời tích cực nghiên cứu, truyền thông, giáo dục về tư tưởng Hồ Chí Minh. Với gần 90 triệu lượt khách tham quan, Khu Di tích đã xuất bản nhiều ấn phẩm, có trang tin điện tử và tổ chức triển lãm. Để nâng cao hiệu quả, cần tăng cường nhận thức, hoàn thiện kế hoạch bảo tồn, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số hóa, cải thiện chất lượng phục vụ, khai thác du lịch và đào tạo đội ngũ chuyên nghiệp. Nơi đây thực sự là “địa chỉ đỏ” và “cầu nối” đưa di sản Hồ Chí Minh đến với mọi người.

Quản lý di sản văn hóa ở Việt Nam: Thành tựu, bài học kinh nghiệm và định hướng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

Di sản văn hóa là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa dân tộc, đồng thời là nguồn lực nội sinh thiết yếu phục vụ phát triển bền vững đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam đặt ra những yêu cầu mới về thể chế, nguồn lực, công nghệ và sự tham gia của toàn xã hội.

Bảo tàng Lịch sử quốc gia trước yêu cầu mới về ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Những năm gần đây, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong tiếp cận công chúng và bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua các hoạt động trưng bày, giới thiệu trưng bày, giáo dục tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã đạt được những kết quả tiêu biểu. Trước yêu cầu mới về triển khai thực hiện “đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, cần một số giải pháp để từng bước xây dựng Bảo tàng Lịch sử quốc gia thành trung tâm tư liệu, dữ liệu lớn nhất về di sản lịch sử, văn hóa Việt Nam và hướng tới xây dựng bảo tàng số, bảo tàng thông minh.

Nghi lễ trồng cột nêu của người Tà Ôi: Biểu tượng thiêng liêng và nỗ lực bảo tồn

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, nghi lễ trồng cột nêu (hay còn gọi là “trỉa nêu”) của người Tà Ôi đóng vai trò như một biểu tượng tâm linh và văn hóa đặc biệt. Đây không chỉ là một nghi thức trong đời sống tín ngưỡng mà còn là bản thể gắn kết cộng đồng, biểu đạt mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, thần linh và tổ tiên. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại, khi nhịp sống ngày càng bị cuốn theo những thay đổi về kinh tế, xã hội, nghi lễ này đang đối mặt với nguy cơ mai một, đặt ra nhiều thách thức về bảo tồn.

Phát huy nguồn lực di sản văn hóa trong xây dựng các không gian sáng tạo của thành phố Hà Nội (Trường hợp Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội)

Tóm tắt: Công nghiệp văn hóa là kênh truyền dẫn tài nguyên văn hóa của đất nước, gia tăng “sức mạnh mềm văn hóa” của các quốc gia. Trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đặt ra nhiệm vụ xây dựng Hà Nội là một trong ba trung tâm công nghiệp văn hóa của cả nước. Không gian sáng tạo được xác định là một trong những ngành mũi nhọn trong phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô. Tháng 10-2019, Hà Nội gia nhập Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO lĩnh vực Thiết kế, một trong ba sáng kiến Hà Nội cam kết thực hiện ở cấp địa phương là “Xây dựng và củng cố các không gian sáng tạo”. Với hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ, việc khai thác và phát huy nguồn lực di sản văn hóa cho xây dựng các không gian sáng tạo tại các điểm đến của thành phố, góp phần định vị thương hiệu sáng tạo của Hà Nội và hướng tới phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô là vấn đề chúng tôi quan tâm trong bài viết này qua phân tích trường hợp Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Di sản văn hóa thế giới Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long.

Bảo đảm sự tham gia tích cực và ý nghĩa của cộng đồng tại các khu di sản thế giới: Khung chính sách của UNESCO và Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích cách các khung chính sách của UNESCO và cải cách pháp lý tại Việt Nam đang thúc đẩy sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của cộng đồng trong quản lý các khu Di sản thế giới, thông qua cách tiếp cận dựa trên quyền văn hóa. Qua việc đối chiếu khung pháp lý cùng các công cụ quốc tế và Việt Nam, gồm: Công ước UNESCO 1972, Chính sách về việc lồng ghép quan điểm phát triển bền vững vào các quy trình của Công ước Di sản Thế giới (UNESCO, 2015) và Luật Di sản văn hóa năm 2024, bài viết khẳng định sự tham gia của cộng đồng là yếu tố then chốt không chỉ để bảo đảm công bằng về văn hóa mà còn để duy trì tính xác thực và sức sống của di sản.

Phát huy giá trị di sản văn hóa trong giáo dục truyền thống cho thanh niên hiện nay (nghiên cứu trường hợp của di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Nhà tù Hỏa Lò)

Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi giá trị sống của giới trẻ, việc khai thác di sản như một phương tiện giáo dục lịch sử - văn hóa đang ngày càng trở thành xu hướng cần thiết và cấp bách. Thông qua các hoạt động giáo dục trải nghiệm, tham quan chuyên đề, thi tìm hiểu lịch sử, cũng như ứng dụng công nghệ số, hai di tích tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội: Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Nhà tù Hỏa Lò đã và đang thực hiện tốt vai trò truyền tải giá trị truyền thống đến thế hệ trẻ. Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn tồn tại những bất cập như: sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa nhà trường và cơ sở di tích, hạn chế về nguồn nhân lực và học liệu giáo dục di sản. Bài viết phân tích vai trò của di sản văn hóa; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống qua di sản văn.

Vai trò của di sản trong việc thúc đẩy học tập trong chương trình giáo dục nội và ngoại khóa (nghiên cứu trường hợp của di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Tóm tắt: Văn Miếu - Quốc Tử Giám, quần thể di tích tín ngưỡng và lịch sử giáo dục khoa cử quan trọng của Việt Nam, thu hút đông đảo khách tham quan, đặc biệt là học sinh, sinh viên đến học tập, nghiên cứu và cầu may. Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học (TTHĐVHKH) Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trực thuộc Sở VHTT Hà Nội, có trách nhiệm thực hiện chính sách quốc gia về giáo dục di sản. Từ năm 2016, Trung tâm đã xây dựng và triển khai hơn 30 chuyên đề giáo dục di sản cho học sinh các cấp. Bài viết giới thiệu cách tiếp cận mới trong xây dựng chương trình giáo dục di sản tại các thiết chế văn hóa, chia sẻ kinh nghiệm thực tế, chỉ ra rào cản khi lồng ghép với hoạt động ngoại khóa, đề xuất cách thiết kế chương trình tại bảo tàng, di tích và kiến nghị đổi mới phương pháp giáo dục di sản.

Thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở Hội An hiện nay và những vấn đề đặt ra

Tóm tắt: Thành phố Hội An (tỉnh Quảng Nam) là điểm sáng trên bản đồ du lịch Việt Nam và thế giới, là một trong những mô hình tiêu biểu về việc khai thác, phát huy hiệu quả nguồn lực từ “vốn văn hóa” ở hệ thống di sản đặc sắc. Bài viết làm rõ thực trạng bảo tồn, phát huy và những đóng góp của di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở Hội An hiện nay, từ đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Hội An là thành phố “Sinh thái - Văn hóa - Du lịch”.

Phát triển nghề rối Đào Thục trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Tóm tắt: Trong dòng chảy không ngừng của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nghệ thuật rối nước Đào Thục, một di sản văn hóa quý báu của Việt Nam, đang đứng trước nhiều thách thức. Một mặt, sự phát triển của du lịch và giao lưu văn hóa quốc tế mở ra cơ hội vàng để quảng bá loại hình nghệ thuật độc đáo này ra thế giới, thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. Mặt khác, những thách thức không nhỏ đang đặt ra, từ sự thay đổi trong thị hiếu khán giả, áp lực thương mại hóa, đến nguy cơ mai một đội ngũ nghệ nhân kế cận. Nếu không có những chiến lược bảo tồn và phát triển phù hợp, nghệ thuật rối nước Đào Thục có nguy cơ bị lãng quên trong đời sống văn hóa hiện đại. Bài viết đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức mà nghề rối Đào Thục đang đối mặt, từ đó đề xuất những giải pháp khả thi dưới góc độ quản lý văn hóa, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản, góp phần phát triển ngành công nghiệp văn hóa, gắn kết với du lịch và kinh tế sáng tạo, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của nghệ thuật truyền thống trong thời đại hội nhập.

Chùa Thanh Mai (Chí Linh, Hải Dương) trong không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử

Tóm tắt: Không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử được định vị ở vùng Bắc Giang và một phần ở Hải Dương, thuộc khu vực phía Tây của dãy Yên Tử. Cùng với quần thể danh thắng Yên Tử, không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử đã tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử từ thuở ban đầu cho tới quá trình học đạo, hoằng pháp. Chùa Thanh Mai - một di tích gắn với vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm - Pháp Loa, là một ngôi chùa không lớn, nhưng những dấu tích vật chất còn lại đã đưa ra những minh chứng quan trọng về sự hình thành, phát triển của Thiền phái Trúc Lâm trong không gian văn hóa Tây Yên Tử. Bài viết làm rõ thêm về không gian Phật giáo phía Tây dãy Yên Tử và con đường hành Thiền phía Tây Yên Tử của các Thiền sư khi xưa cũng như của Phật tử đương thời.