Đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Để phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới

Phóng viên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật ghi nhận một số ý kiến đóng góp của giới trí thức, văn nghệ sĩ đối với Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng.

Lễ hội trên sông Tràng An - Ảnh: Ninh Mạnh Thắng

 

* TS Đặng Thị Bích Liên, nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL, Chủ tịch Hiệp hội Văn hóa Áo dài Việt Nam: Chính sách nhân lực văn hóa cần được xây dựng theo hướng nhân văn, linh hoạt và đúng tầm giá trị

Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, TS Đặng Thị Bích Liên, nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL, Chủ tịch Hiệp hội Văn hóa Áo dài Việt Nam nhấn mạnh: Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII được xác định là văn kiện trung tâm, kết tinh trí tuệ, ý chí và khát vọng phát triển của toàn Đảng, toàn dân. Bà đánh giá cao bản dự thảo lần này, bởi dự thảo văn kiện nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới” - thể hiện cách tiếp cận toàn diện, sâu sắc và mang tầm chiến lược về phát triển văn hóa.

Theo TS Đặng Thị Bích Liên, điểm nổi bật của dự thảo văn kiện là xác định đúng trọng tâm và cốt lõi: nền tảng văn hóa của dân tộc đã được khẳng định, song điều quyết định nằm ở cách thức vận hành, phát huy và lan tỏa các giá trị ấy, mà yếu tố then chốt chính là con người. Việc đưa vào văn kiện nội dung “nguồn lực để phát triển văn hóa bền vững là con người” thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng về vai trò chủ thể, mục tiêu và động lực của con người trong phát triển văn hóa.

Bà cho rằng, xây dựng đội ngũ con người là khâu cốt lõi, bao gồm những người làm công tác quản lý, đào tạo, cùng đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ có khả năng phát huy và lan tỏa các giá trị văn hóa Việt Nam. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, công tác phát hiện và đào tạo tài năng giữ vai trò then chốt. Nghệ thuật đòi hỏi năng khiếu bẩm sinh, song chỉ khi được đào tạo bài bản, dài hạn và có chính sách đãi ngộ phù hợp, tài năng mới có thể phát triển bền vững. Vì vậy, chính sách nhân lực văn hóa cần được xây dựng theo hướng nhân văn, linh hoạt và đúng tầm giá trị.

Bên cạnh nguồn nhân lực, bà đặc biệt nhấn mạnh vai trò của di sản văn hóa trong phát triển bền vững. Trong 7 năm công tác với cương vị Thứ trưởng, phụ trách mảng di sản văn hóa, bà có cơ hội tiếp xúc với nhiều địa phương, di tích và cảm nhận sâu sắc bản sắc văn hóa Việt Nam phong phú, độc đáo, khác biệt so với nhiều quốc gia trên thế giới.

“Mỗi lần đến một di tích, tôi đều thấy tự hào và xúc động sâu sắc. Chính những trải nghiệm đó khiến tôi càng thấm thía hơn giá trị vô giá của di sản và trách nhiệm gìn giữ, phát huy chúng”- bà chia sẻ.

Theo TS Đặng Thị Bích Liên, việc phát huy giá trị di sản văn hóa không chỉ là bảo tồn quá khứ, mà còn là giáo dục truyền thống, bồi đắp lòng tự hào dân tộc và ý thức trân trọng di sản cho thế hệ mai sau. Muốn vậy, cần có chính sách đồng bộ và thực chất: bên cạnh tuyên truyền, giáo dục lịch sử, phải đẩy mạnh quảng bá, tôn vinh, nâng cao giá trị của di tích.

“Việt Nam có nhiều ngôi chùa, công trình cổ tuy quy mô nhỏ nhưng chứa đựng giá trị lớn về lịch sử và thẩm mỹ; vì thế, cần tránh xu hướng phá bỏ di tích cũ để xây mới công trình hoành tráng, bởi “sự hoành tráng đôi khi chỉ phản ánh tiềm lực kinh tế, chứ không thể hiện được chiều sâu giá trị văn hóa” - bà nói.

Đề cập đến kinh tế di sản, TS Đặng Thị Bích Liên cho rằng, khai thác giá trị di sản để phát triển kinh tế là xu hướng tất yếu, nhưng phải đi đôi với bảo tồn giá trị nguyên gốc. Nếu chỉ chạy theo lợi ích kinh tế, di sản dễ bị thương mại hóa, “xã hội hóa” quá mức, đánh mất bản sắc. Vì vậy, phát triển và bảo tồn cần song hành, hài hòa - vừa thích nghi với thời đại, vừa giữ vững giá trị gốc. Đây là vấn đề cần sự tham gia của các nhà khoa học, sử học, khảo cổ và chuyên gia văn hóa.

Bà cũng nhấn mạnh, mỗi loại hình di sản cần có chính sách và cơ chế riêng, nhằm giữ gìn giá trị nổi bật, ngăn chặn xuống cấp, đồng thời khai thác hợp lý để di sản “sống” trong đời sống đương đại - vừa là nguồn lực phát triển kinh tế, vừa là nền tảng tinh thần của quốc gia.

TS Đặng Thị Bích Liên cho rằng, Dự thảo đã thể hiện rõ các định hướng lớn, vấn đề hiện nay là tổ chức thực hiện hiệu quả, biến tinh thần văn kiện thành hành động cụ thể, để các mục tiêu phát triển văn hóa thực sự đi vào cuộc sống. Sau Đại hội, cần sớm cụ thể hóa các quan điểm và mục tiêu bằng chương trình hành động, đề án, dự án thiết thực, bảo đảm Nghị quyết được triển khai thực chất, hiệu quả trong đời sống xã hội.

* NSND Tống Toàn Thắng, Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam: Xây dựng văn hóa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân

Đóng góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, NSND Tống Toàn Thắng cho rằng, chưa bao giờ đời sống văn hóa - nghệ thuật của Việt Nam lại khởi sắc và năng động như hiện nay. Thành quả đó xuất phát từ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị.

Theo ông, dự thảo đã nêu rõ các định hướng chiến lược phát triển văn học, nghệ thuật, thiết chế văn hóa, đồng thời nhấn mạnh việc triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa - một bước tiến đột phá đặt nền móng cho công nghiệp văn hóa và bảo đảm mọi người dân, ở mọi vùng miền, đều được thụ hưởng giá trị văn hóa.

NSND Tống Toàn Thắng cho rằng, để văn hóa chuyển mình mạnh mẽ, cần có chiến lược rõ ràng, được thể chế hóa bằng nghị quyết và chương trình hành động cụ thể, bảo đảm tính đồng bộ trong triển khai.

“Đổi mới là quá trình lâu dài, cần kiên định và linh hoạt điều chỉnh theo thực tiễn. Quan trọng là xác định đúng ưu tiên, chọn hướng đi phù hợp với con người và văn hóa Việt Nam”- ông nhấn mạnh.

Theo nghệ sĩ, điều cốt lõi nhất vẫn là con người - và trước hết là đổi mới tư duy. Không đổi mới tư duy thì không thể đổi mới hành động. Vì vậy, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm phải là “chìa khóa” để đưa văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh thực sự của phát triển quốc gia.

Bên cạnh đó, ông đề nghị chính sách văn hóa phải theo kịp nhịp sống xã hội, tránh để nghệ sĩ và hoạt động sáng tạo bị tụt hậu. Cần đầu tư đúng và kịp thời cho văn hóa, con người và các loại hình nghệ thuật truyền thống, không chỉ bằng nguồn lực Nhà nước mà còn bằng cơ chế xã hội hóa bền vững, để văn hóa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân.

NSND Tống Toàn Thắng cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục và phát triển nhân tài văn hóa - nghệ thuật. Cần đưa văn hóa - nghệ thuật - thể thao vào trường học, phát triển mô hình “văn hóa học đường” để bồi dưỡng nhân cách, thẩm mỹ và tình yêu nghệ thuật cho thế hệ trẻ. Đồng thời, phải có chiến lược phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện cho nghệ sĩ phát huy hết tiềm năng sáng tạo, bởi “hiền tài là nguyên khí quốc gia.”

Theo ông, để đầu tư hiệu quả, cần có cơ chế đặc thù cho các loại hình nghệ thuật tiêu biểu, có sức lan tỏa đại chúng, bởi nghệ thuật chính là phương tiện trực tiếp hình thành tư tưởng và gu thẩm mỹ cộng đồng.

“Trước hết phải phục vụ 100 triệu đồng bào Việt Nam, xây dựng thị trường văn hóa nội địa vững mạnh; khi người Việt trân trọng và tự hào về sản phẩm văn hóa của mình, thế giới sẽ tìm đến Việt Nam bằng sự tôn trọng và ngưỡng mộ”- NSND Tống Toàn Thắng khẳng định.

* NSƯT Nguyễn Thị Lộc Huyền (Đoàn nghệ thuật Tuồng, Nhà hát Sân khấu truyền thống quốc gia Việt Nam): Đề xuất bổ sung hệ thống chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả chính sách văn hóa

NSƯT Nguyễn Thị Lộc Huyền (Lộc Huyền) nhấn mạnh: Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đã dành dung lượng đáng kể cho lĩnh vực văn hóa, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với phát triển văn hóa trong giai đoạn mới. Đây là tín hiệu vui mừng với những người làm công tác văn hóa và giới văn nghệ sĩ, khẳng định vị thế ngày càng được nâng cao của văn hóa trong đời sống xã hội.

Theo nghệ sĩ, Dự thảo đã xác định rõ định hướng: phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn với xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời đẩy mạnh công nghiệp và dịch vụ văn hóa, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, chú trọng văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số, và quan tâm đến văn hóa doanh nghiệp, văn hóa khởi nghiệp, đạo đức doanh nhân. Những định hướng này thể hiện tư duy phát triển văn hóa toàn diện, hiện đại, coi văn hóa là nguồn lực nội sinh định hình con người, môi trường sống và kinh tế - xã hội.

Đóng góp vào dự thảo văn kiện, NSƯT Lộc Huyền đề xuất bổ sung hệ thống chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả chính sách văn hóa một cách cụ thể và minh bạch, như: tỷ lệ người dân tham gia hoạt động văn hóa, thể thao thường xuyên; mức độ tiếp cận thiết chế văn hóa ở vùng sâu, vùng xa; số lượng doanh nghiệp và sản phẩm văn hóa - nghệ thuật có giá trị cao; hay mức độ hài lòng của người dân về đời sống văn hóa. Việc lượng hóa này sẽ giúp công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chính sách được sát thực và hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, nghệ sĩ cho rằng, không chỉ mở rộng số lượng thiết chế văn hóa mà cần chú trọng chất lượng hoạt động, nội dung và hiệu quả phục vụ cộng đồng, để các thiết chế thực sự trở thành không gian sáng tạo, giao lưu, nuôi dưỡng đời sống tinh thần nhân dân, phản ánh bản sắc Việt Nam trong thời đại mới.

Về phát triển văn hóa số và đổi mới sáng tạo, NSƯT Lộc Huyền đề nghị Dự thảo bổ sung nội dung cụ thể hơn về “văn hóa số”, “văn hóa sáng tạo” và “đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa”, coi đây là động lực phát triển tất yếu. Bà nhấn mạnh: Cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong bảo tồn di sản, quảng bá nghệ thuật, đào tạo và phổ biến văn hóa, xây dựng hệ sinh thái sáng tạo số làm nền tảng cho công nghiệp văn hóa, du lịch và thương hiệu quốc gia, đồng thời khuyến khích mô hình sáng tạo vì cộng đồng và hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa.

Với văn hóa vùng miền và đồng bào dân tộc thiểu số, nghệ sĩ cho rằng Dự thảo cần cụ thể hóa hơn cơ chế, chính sách đảm bảo quyền tiếp cận và phát triển văn hóa bình đẳng cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, song song với đầu tư hạ tầng, nguồn lực, nhân lực văn hóa tại cơ sở, và tăng cường giao lưu giữa các vùng miền để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Về xây dựng con người mới - nhân cách và giá trị nền tảng, nghệ sĩ nhấn mạnh các giá trị cốt lõi cần được khẳng định trong văn kiện: yêu nước, tự cường, sáng tạo, trung thực, trách nhiệm, biết hội nhập toàn cầu nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc. Trong thời đại toàn cầu hóa và mạng xã hội phát triển, việc giữ gìn đạo đức, lối sống, bản sắc văn hóa Việt Nam rất cần quan tâm, đây là yếu tố then chốt để hình thành công dân Việt Nam thời kỳ mới.

Nghệ sĩ cũng đề xuất đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa với tư duy sáng tạo, linh hoạt, thực tiễn. Khuyến khích nghệ sĩ, trí thức, nhà nghiên cứu tham gia vào quá trình hoạch định và phản biện chính sách văn hóa, qua đó nâng cao tính dân chủ văn hóa để người dân thực sự làm chủ đời sống văn hóa của mình. Đồng thời, cần phát huy vai trò của công nghệ số và truyền thông mới trong quản lý, sáng tạo, phổ biến và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Cuối cùng, NSƯT Lộc Huyền nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gắn kết văn hóa với giáo dục và truyền thông. Theo bà, giáo dục văn hóa - lối sống trong nhà trường, gia đình và cộng đồng cần được coi là nội dung trọng tâm trong hình thành nhân cách và thẩm mỹ cho thế hệ trẻ; đồng thời, cần nâng cao năng lực truyền thông văn hóa, phát huy vai trò của báo chí và nền tảng số trong lan tỏa giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, giúp người dân hiểu, trân trọng và chủ động tham gia vào đời sống văn hóa, góp phần xây dựng xã hội nhân văn, sáng tạo và bền vững.

 

AN NGỌC

Nguồn: Tạp chí VHNT số 623, tháng 10-2025

;