Cuối tuần giữa tháng chín, khi những cơn gió mùa Thu đã kịp len lỏi vào từng con ngõ nhỏ nơi phố thị, chúng tôi quyết định rời xa nhịp sống ồn ã để tìm về một nơi yên tĩnh hơn. Cái tên “Hồ Cấm Sơn” đã xuất hiện trong tâm trí tôi từ lâu, phần vì những câu hát ngọt ngào trong nhạc phẩm “Hồ trên núi” của cố nhạc sĩ Phó Đức Phương, phần vì lời rủ rê chân thành của một người bạn quê Bắc Ninh rằng: “Cứ đến đây đi, chắc chắn sẽ thấy bình yên”. Thế là chúng tôi lên đường, mang theo tâm thế của những kẻ muốn thả mình vào thiên nhiên.
Hồ Cấm Sơn vốn thuộc địa bàn bốn xã: Sơn Hải, Hộ Đáp, Tân Sơn và Cấm Sơn của huyện Lục Ngạn trước đây (sau sáp nhập thuộc tỉnh Bắc Ninh), đi từ Hà Nội không quá xa, chừng hơn trăm cây số. Xe chạy qua những cánh đồng lúa đang vào vụ gặt, qua những triền đồi xanh rì, để rồi mở ra trước mắt là một khoảng mênh mông bát ngát của nước và núi. Hồ Cấm Sơn như một dải lụa ngọc xanh thẫm vắt ngang thung lũng, hiền hòa nhưng cũng đầy sức cuốn hút. Ngay khoảnh khắc đầu tiên chạm mắt vào mặt hồ phẳng lặng, tôi đã hiểu vì sao nhạc sĩ Phó Đức Phương lại rung cảm đến thế để viết nên những giai điệu trữ tình: Thuyền ta ngược, thuyền ta xuôi/ Giữa dòng nước bạc, nhịp chèo ta bơi/ Ai đắp đập, ai phá núi, cho hồ nước đầy là mặt gương soi/ Non xanh và nước biếc/ Khoan nhặt mái chèo...
Vẻ đẹp mê hoặc lòng người của hồ Cấm Sơn khi thời tiết sang Thu
Chúng tôi thuê một chiếc thuyền nhỏ của người dân địa phương để men theo các hòn đảo nổi lên giữa lòng hồ. Thuyền lướt nhẹ, để lại vệt sóng dài loang loáng ánh nắng Thu. Cảnh sắc như tranh vẽ: một bên là núi thoai thoải phủ kín màu xanh rừng, một bên là sóng nước mênh mang. Thi thoảng, vài ngọn núi nhô cao như những chiếc mũ bảo vệ bình yên cho mặt hồ. Gió thổi nhè nhẹ, mang theo mùi ngai ngái của cỏ cây và vị mặn mòi của nước hồ. Tôi bỗng thấy mình nhỏ bé, như đang đi lạc vào một miền cổ tích.
Người dân nơi đây kể rằng hồ Cấm Sơn gắn với nhiều truyền thuyết. Có câu chuyện rằng ngày xưa vùng này vốn là một thung lũng, một con rồng thần đã giáng xuống, quẫy mình tạo nên lòng hồ mênh mông để giữ nước cho muôn dân. Cũng có tích khác giải thích tên gọi “Cấm Sơn” bắt nguồn từ việc, nơi này xưa kia là chốn linh thiêng, có ngọn núi cấm mà chỉ các bậc cao niên, già làng mới được vào làm lễ. Những lớp truyền thuyết ấy khiến hồ không chỉ mang vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thấm đẫm sắc màu văn hóa dân gian, làm du khách thêm tò mò và trân trọng.
Điều thú vị là càng đi sâu, hồ Cấm Sơn càng hiện ra nhiều hòn đảo nhỏ nằm rải rác. Người dân kể rằng nơi đây có đến hàng chục đảo lớn nhỏ, mỗi đảo một dáng hình, khi thì như con rồng, lúc lại như chú voi nằm nghỉ. Những đảo ấy phủ xanh bởi cỏ và cây bụi, điểm xuyết vài mái nhà nhỏ của người đi rừng. Cảnh vật giản dị nhưng gợi cho chúng tôi cảm giác về một chốn an trú, nơi con người và thiên nhiên nương tựa vào nhau.
Có nhiều hòn đảo lớn nhỏ nổi lên mặt nước với rừng cây xanh ngắt tạo nên cảnh quan quyến rũ
Một bác lái thuyền chia sẻ: “Ngày thường thì yên ả lắm, chỉ có dân đánh cá đi lại. Nhưng vào dịp cuối tuần, khách đến đông hơn, người Hà Nội, Hải Phòng, thậm chí cả du khách nước ngoài cũng tìm về. Ai đến rồi cũng muốn quay lại, vì ở đây vừa có cảnh hồ núi nên thơ, vừa có cá tươi ngon để thưởng thức”. Nói rồi, bác mời chúng tôi ghé thăm một nhà bè nhỏ, nơi người dân vừa nuôi cá vừa phục vụ khách du lịch. Ngồi trên sàn gỗ, nghe tiếng sóng vỗ lách tách vào mạn bè, chúng tôi được thưởng thức bữa trưa giản dị mà khó quên: cá nướng thơm phức, canh cá nấu măng chua, rau rừng luộc chấm muối vừng. Tất cả đều tươi rói, ngọt lành, mang hương vị của chính hồ nước trước mặt.
Giữa cuộc trò chuyện, một nhóm du khách từ Hà Nội ngồi bên cạnh cũng hồ hởi góp lời. Chị Lan – người đã đi Cấm Sơn hai lần – chia sẻ rằng: “Tôi thích đến đây vào dịp cuối tuần, vì chỉ cần hai ngày là đủ để rời xa phố xá, tìm chút thư thái cho tâm hồn. Hồ Cấm Sơn trong ký ức của tôi luôn là chốn thanh sạch, nơi mà mọi lo toan dường như tan biến”. Một bác trung niên đi cùng đoàn lại thêm: “Đẹp nhất là mùa Thu này, khi nước hồ trong xanh, khí trời se lạnh. Chỉ cần ngồi thuyền thả hồn theo sóng, thế là đủ để thấy nhẹ nhõm rồi”.
Nghe những lời ấy, tôi càng thấy Cấm Sơn không chỉ là một điểm đến ngẫu nhiên, mà thực sự là nơi níu giữ tâm hồn người lữ khách. Có lẽ, chính cái vẻ đẹp dung dị và chân thực của hồ đã khiến cho du khách nào cũng tìm thấy sự đồng điệu.
Buổi chiều, chúng tôi thuê xe máy để tham quan vòng quanh hồ. Con đường uốn lượn men theo sườn núi, lúc lên cao, lúc xuống thấp, mở ra những góc nhìn khác nhau về mặt hồ rộng lớn. Có đoạn đường rợp bóng cây, ánh nắng xuyên qua tán lá tạo thành những vệt sáng lung linh trên mặt đất. Có khúc cua bất ngờ đưa ta ra trước một khoảng trời rộng, nơi hồ trải dài mênh mông, sóng nước ánh lên sắc vàng của hoàng hôn. Đứng trên cao nhìn xuống, tôi chợt nhớ đến câu hát “Hồ trên núi, sóng gợn trùng khơi...” và thấy lòng mình ngân lên theo nhịp nhạc.
Người dân bản địa làm món thịt xiên, cá, gà nướng
Hồ Cấm Sơn không chỉ là thắng cảnh du lịch mà từ lâu còn là nguồn sống của cư dân quanh vùng. Người dân các xã miền núi Lục Ngạn bao đời gắn bó với hồ qua nghề đánh bắt cá, nuôi cá lồng, trồng cây ăn quả trên những triền đồi ven hồ. Nhờ hồ, khí hậu nơi đây mát lành, mùa màng tươi tốt. Nhiều lễ hội truyền thống của đồng bào Tày, Nùng, Sán Dìu cũng gắn với hồ, với ước vọng mưa thuận gió hòa, cá tôm đầy khoang. Hồ không chỉ nuôi dưỡng đời sống vật chất mà còn nuôi dưỡng tinh thần, trở thành phần ký ức tập thể của biết bao thế hệ.
Chúng tôi nghỉ đêm tại một homestay nhỏ bên hồ. Chủ nhà là người Tày, đón tiếp khách bằng nụ cười hiền hậu và chén trà thơm nồng. Buổi tối, bên bếp lửa hồng, chúng tôi được nghe kể về những câu chuyện xưa, về truyền thuyết hồ Cấm Sơn, về cuộc sống của đồng bào gắn bó với sông nước. Cảm giác ấy thật khác xa so với những ngày bận rộn nơi phố thị. Giữa chốn núi rừng tĩnh lặng, tôi thấy mình như đang sống chậm lại, được quay về với những giá trị giản đơn nhưng quý giá.
Sáng hôm sau, khi mặt trời còn chưa lên hẳn, chúng tôi ra bến thuyền ngắm bình minh. Mặt hồ còn vương hơi sương mỏng, những dải mây lững lờ như muốn ôm lấy mặt nước. Từng tia nắng hồng dần dần xé tan màn sương, để lại cả một không gian bừng sáng. Khoảnh khắc ấy đẹp đến mức khiến tôi chỉ muốn giữ mãi trong trí nhớ. Cảnh tượng ấy không ồn ào, không náo nhiệt, mà lắng sâu, để lại một dư âm dịu dàng, giống như dư vị của bản nhạc Hồ trên núi mà tôi vẫn thầm hát.
Du khách đi thuyền ngắm cảnh lòng hồ
Trở lại thành phố sau hai ngày ngắn ngủi, chúng tôi mang theo cảm giác vừa quen vừa lạ. Quen vì cảnh sắc hồ núi ấy khiến ta liên tưởng đến nhiều danh thắng khác của đất nước, nhưng lạ ở chỗ Cấm Sơn không hề phô trương, không bị ồn ào bởi dịch vụ du lịch ồ ạt. Nó giữ cho mình một vẻ đẹp mộc mạc, tinh khôi, như nàng thiếu nữ chưa kịp khoác áo trang điểm mà đã đủ làm say lòng người.
Có lẽ, cũng chính vì thế mà tỉnh Bắc Ninh đang nỗ lực giới thiệu Hồ Cấm Sơn như một điểm đến cuối tuần, gắn với du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Những năm gần đây, địa phương đã quy hoạch các tuyến du lịch đường thủy quanh hồ, xây dựng bến thuyền phục vụ khách tham quan, khuyến khích phát triển homestay gắn với văn hóa Tày - Nùng, đồng thời hình thành các khu dịch vụ nghỉ dưỡng sinh thái. Nhiều dự án nhỏ nhưng thiết thực được triển khai như tổ chức trải nghiệm chèo kayak, khám phá đảo nhỏ, câu cá trên hồ hay tham gia lễ hội địa phương. Tất cả nhằm giữ được nét nguyên sơ của hồ nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu du khách hiện đại.
Du khách có thể trải nghiệm nhiều hoạt động khi đến hồ Cấm Sơn
Đối với riêng tôi, Cấm Sơn sau chuyến đi này đã trở thành một kỷ niệm đẹp của mùa Thu. Tôi tin rằng, với bất kỳ ai đang tìm kiếm một nơi để tạm xa phố xá, để dành trọn cuối tuần cho thiên nhiên và cho chính mình, thì hồ Cấm Sơn chính là lựa chọn lý tưởng.
Bài, ảnh: NGÔ HUYỀN