Hội chợ triển lãm sách Paris là địa chỉ gặp gỡ tri ân số một toàn cầu của công chúng muôn phương và những người làm ra sách để phục vụ họ. Trong những người làm ra sách, quan trọng nhất là các nghệ sĩ ngôn từ và các nhà xuất bản (nxb). Khởi xướng hội chợ triển lãm từ năm 1981, Công đoàn xuất bản quốc gia Pháp đã có định hướng đúng đắn và vẫn duy trì nó một cách kiên trì. Định hướng đó là tôn vinh kiến thức nói chung và kiến thức làm người nói riêng, thông qua những hoạt động đa dạng như đọc sách, giới thiệu tác phẩm và tác giả, giao lưu giữa người viết và người đọc, ký tặng sách, hội thảo, thi sáng tác và hiểu biết về sách tại chỗ... nhằm khích lệ và thúc đẩy việc đọc sách mà hai nhân vật chủ chốt là nhà văn và độc giả. Thời gian đầu, hội chợ triển lãm mở tại khu Đại Cung điện. Sau đó, do lượng khách dự tăng lên quá đông, từ năm 1992, nó được chuyển tới khu triển lãm của Versailles. Diện tích sử dụng lên tới 55.000 mét vuông. Hội chợ triển lãm sách Paris diễn ra vào tháng ba hàng năm, trong năm ngày, với từ 1.000 tới 1.200 gian trưng bày, dành cho nước chủ nhà Pháp và tối thiểu 25 nước bè bạn. Mỗi gian thường là của một nxb. Không hiếm khi nhiều nxb nhỏ hợp lực mới thuê nổi một gian, vì tiền thuê không nhỏ (hiện là 5.000 euros/m2). Mỗi kỳ hội chợ đón tiếp từ 1.500 đến 2.000 nhà văn. Hiển nhiên, năm nào cũng mời những ngòi bút vàng. Khách dự dao động giữa 150.000 và 250.000 người. Về đại thể, mỗi kỳ triển lãm hội chợ, ban tổ chức mời một quốc gia làm khách danh dự, chủ yếu là các cường quốc Âu Mỹ, thậm chí có nước được làm khách mời hai lần, ví dụ Italia, Đức, Ấn Độ. Hai kỳ đông đảo nhất là năm 2000 với khách mời danh dự là Bồ Đào Nha và 2001, Cộng hòa liên bang Đức. Lấn cấn nhất là 2008, với khách mời danh dự là Israel.
Đáng chú ý, dường như vô tình, hội chợ triển lãm sách Paris gắn bó chặt chẽ với đời sống chính trị hành tinh. Sự thật, chưa sự kiện văn hóa nào được các chính khách, đặc biệt là các nhà lãnh đạo cấp cao và nguyên thủ quốc gia quan tâm nhiều như hội chợ triển lãm sách. Bộ trưởng văn hóa Pháp Jack Lang khai mạc kỳ đầu tiên, 1981. Năm sau, tổng thống Pháp Francois Mitterand đến dự. Năm 1987, ông Valery Giscard d’Estaing, nguyên tổng thống Pháp và đương kim chủ tịch Hội vì nền cộng hòa hiện diện. Hoạt động văn hóa thực sự hấp dẫn này từng hai lần đón tiếp ông Jacques Chirac như nhân vật trụ cột. Năm 1989, ông được mời với tư cách Thị trưởng Paris. Năm 2001, vai trò tổng thống nước chủ nhà, ông cùng tổng thống Gerhard Schroder của Cộng hòa Liên bang Đức, cắt băng khai mạc. Sự chú mục tuồng như thái quá của giới chính trị chóp bu có lẽ đã bị giới làm sách và công chúng văn hóa đọc hiểu lầm. Vì thế, năm 2010, biết ban tổ chức mời Thổ Nhĩ Kỳ làm khách danh dự, nhiều tổ chức và cá nhân chỉ trích kịch liệt, đến mức, ban chủ trì hội chợ triển lãm phải hủy quyết định đó, và chuyển chủ đề kỳ hội thành kỷ niệm 10 năm sự kiện. Song sự vụng về đã lộ rõ và không cứu vãn được tình hình. Nhiều nhà sách lớn của Pháp từ chối tham gia hoặc giảm gian trưng bày sách và các hoạt động quen thuộc. Lượng khách tham dự sụt đi nhiều và hội chợ triển lãm coi như không thành công. Thất bại lớn hơn so với năm 2008. Khách năm ấy thấp nhất trong lịch sử hội chợ-triển lãm. Khách mời danh dự, Israel, đã dấy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ, từ Palestine qua hầu như cả thế giới A rập. Đã thế, Israel lại chuẩn bị đối phó bằng mạng lưới cảnh sát dày đặc, cùng các biện pháp an ninh chặt chẽ. Bất chấp nỗ lực của ban tổ chức và của khách danh dự, kỳ hội vẫn buồn nhiều hơn vui và không tránh được những sự cố đáng tiếc. Ngày 16-3, tổng thống Israel Shimon Perez đang đọc diễn văn khai mạc thì một tấm áp phích bay tới, suýt trúng vào đầu. Rồi một cuộc báo động cài bom, về sau biết là nhầm lẫn, dẫn đến chuyện toàn bộ khách dự phải sơ tán khỏi khu vực hội chợ triển lãm.
Cần ghi nhận đóng góp không nhỏ của các nhà văn cho sức lôi cuốn không cưỡng nổi của hội chợ triển lãm sách Paris. Sự có mặt của George Amado (1998), Tahar Ben Jeloun (1999), Doris Lessing (2010), Anna Gavalda (hai lần, 2008 và 2010), Umberto Eco (bốn lần, 1994, 2000, 2002, 2010)… làm cho hội chợ triển lãm như bừng sáng kỳ ảo. Mấy cuộc trao đổi của Carlos Fuente năm 2009 luôn chật cứng khách dự. Cây bút nữ người Bỉ Amélie Nothomb mấy năm nay vẫn được rất nhiều độc giả chờ ký tặng sách, có khi xếp hàng dài một, hai giờ. Ấn tượng không phai mờ là sự xuất hiện của Salma Rushdie ở hội chợ triển lãm năm 1995. Đang bị bản án tử hình của thế giới đạo Hồi cực đoan treo trên đầu khắp các châu lục từ năm 1989, ông vì văn học và công chúng văn học, đến với họ thật đĩnh đạc và đường hoàng. Sự chú ý tới hội chợ triển lãm của giới chính trị thượng đỉnh và của giới văn bút toàn cầu cho thấy vai trò cốt tử của sách, rằng sách và văn hóa đọc là cần thiết và gần gũi với con người hơn mọi loại hình nghệ thuật. Những bê bối nêu ở phần trên thực chất là đòi hỏi quá cao ở văn học, tuồng như văn học chỉ đạo được hết thảy. Song theo các chuyên gia mẫn cán và đáng tin cậy nhất, sự dẫn dắt đời sống và con người của văn học là quanh co và gián tiếp hơn nhiều. Họ theo dõi liên tục hội chợ triển lãm và đưa ra những thực tế đáng mừng và những con số biết nói. Nếu trong âm nhạc, internet đang bóp chết đĩa ghi âm thì trong văn chương, sách in truyền thống vẫn là chúa tể. Trên thị trường sách Pháp mỗi năm, trong khoảng 400 triệu bản sách tiêu thụ, chỉ chừng 30 triệu bản bán được qua mạng, chiếm 6%. Qua thăm dò, chưa đến 5% người yêu sách đọc chúng trên màn hình vi tính. Đa phần vẫn thích được ngắm nhìn, sờ vào sách và lật giở vài trang tại các điểm bán, khi về nhà thì thích thú đọc từng trang như đọc thư tình. Như vậy, internet vẫn chỉ là phụ tá chứ không lấn lướt hay áp đảo được sách in vốn đã bao đời thân thiết với người đọc.
Hai phần ba dân Pháp đọc gần 5 cuốn cả năm. 9% đọc trung bình mỗi tháng một cuốn. Số này giữ nguyên qua nhiều năm. Về những người chăm đọc sách, phái đẹp đọc nhiều nhất (42% phụ nữ đọc hơn 6 cuốn một năm, trong trong khi phái mạnh chỉ 26%). Viên chức nhà nước đứng đầu bảng hay đọc, xét theo ngành nghề. Thứ hai là người về hưu, thứ ba, các bà nội trợ. Về việc chọn sách để đọc, hai phần ba độc giả chọn đọc theo chủ đề, một phần ba theo tác giả. Lời khuyên của bạn hữu hoặc người thân có tính quyết định việc lựa chọn sách đối với 31% người đọc. 6%, dựa theo tư vấn của các hiệu sách hay người bán sách. Trái với ý nghĩ quen thuộc rằng các giải thưởng tôn thêm giá trị sách văn chương lên rất nhiều, thực tế, các giải thưởng hầu không đóng vai trò gì đáng kể trong việc chọn sách để đọc. Duy chỉ 1% độc giả quyết định mua một cuốn sách vì nó đoạt một giải nào đó. Về mục đích đọc, 51% người được hỏi cho biết họ đọc để giải trí hay thư giãn. 49%, để học hỏi và chiêm nghiệm. Xin lưu ý, chỉ 14% đọc để được cười, 8% để biệt lập với người khác, 4% để được thót tim. Những thông tin này là vô cùng quý báu cho giới sáng tác, nhất là các nhà chuyên viết truyện ngắn hay tiểu thuyết. Chúng xác nhận lý do vì sao các nhà cổ điển TK XVIII và XIX, như La Fontaine, Hugo, Baudelaire, Zola, Flaubert, đặc biệt là Maupassant, cũng như các nhà kinh điển TK XX, Antoine de Saint Exupéry, Marcel Proust, Jacques Prevert hay Albert Camus, vẫn được hâm mộ phi thường. Các tác giả đang nói vẫn ngang ngửa với những cây bút ăn khách nhất hiện thời.
Xét về xu hướng đọc, mảng sách công cụ (từ điển, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nói chung, hướng dẫn du lịch) suy giảm về tiêu thụ. Mảng nhà trường ổn định, mảng văn học thường khởi sắc hơn. Các cây bút Pháp đang có sách bán chạy nhất trong và ngoài hội chợ triển lãm sách Paris là Marc Lévy, Marc Lévy, Guillaume Musso, đặc biệt Anna Gavalda và Michel Houellebecq, giải Goncourt 2010. Không khó để nhận ra rằng, những tên tuổi vừa nêu trên sở dĩ mê hoặc độc giả đến thế vì họ đã biết đổi mới văn chương trên nền tảng nhân bản là linh hồn của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Các văn sĩ trẻ Marc Lévy, Guillaume Musso nỗ lực viết thật dễ hiểu, nhẹ nhàng về những chuyện gần gũi, nhưng không tầm thường mà thiết cốt, với những rung động trong sáng, cao thượng và quan trọng nhất là chân thực. Anna Gavalda và Michel Houllebecq tiếp nối truyền thống cổ điển rực rỡ của văn học Pháp TK XIX, với những đổi mới đầy triển vọng, dù họ chưa hiến được cho độc giả những tác phẩm khổng lồ như của những nhà cổ điển vừa được đề cập. Cả bốn không cậy nhờ tới hóc hiểm, ly kỳ hay mùi mẫn, vốn là những chiêu câu khách rẻ tiền và tiết kiệm đáng kể công sức cho nhà sáng tạo. Dĩ nhiên, bốn nhân vật đang được chú ý bậc nhất trên văn đàn không chỉ của Pháp đó có đứng lại được với thời gian hay không lại là chuyện khác. Tại hội chợ triển lãm sách Paris, ba tác giả ngoại quốc vẫn khiến làng văn thế giới sững sờ. Ấy là Stephenie Meyer và Stig Larsson và Henning Mankell. Đáng ngạc nhiên, cả ba đều nổi đình đám không phải với loại hình tự sự cổ điển được coi là chủ lực, mà với loại hình theo quan niệm chung là hạng hai hoặc hạng ba. Có lẽ họ muốn kết hợp cho được sự sâu xa của tư tưởng, chủ nghĩa cổ điển và tính ăn khách của văn trinh thám hay ma cà rồng. Sự nghiệp của ba người được hiểu như bước quá độ tất yếu lên một chủ nghĩa cổ điển mới. Với bộ tiểu thuyết Chạng vạng, Stephenie Meyer đã sáng tạo Edward, con quỷ hút máu đồng loại mới toanh, một nhân vật thời đại, một biểu tượng choáng váng của người Mỹ vốn đang bị soi mói hiện giờ. Qua Edward, cây viết trẻ chỉ ra thật xúc động và hùng hồn những phẩm chất cơ bản của nhân dân Hoa Kỳ, nổi bật là khát vọng chối bỏ cái ác và sống vì đồng loại.
Tiểu thuyết bộ ba Thời hoàng kim của Stig Larsson (1954-2004) có thể được ghi nhận như một cú hích, nếu không muốn nói là một bước ngoặt, đối với không chỉ văn học Bắc Âu, mà cả văn học Lục địa già. Sau 5 năm ra mắt, nó đã đạt con số phát hành đáng gờm: 52 triệu bản (mỗi bản 2.000 trang khổ thường) qua gần 30 ngôn ngữ thế giới. Khác hẳn loại tiểu thuyết vỉa hè, kiểu Mật mã Da Vinci, nó được xưng tụng như một tác phẩm cổ điển mới lạ, có khả năng mở đường cho một cuộc cách mạng văn học. Thành công đến khó tin của nó đã đưa đến quyết định đổi mới thể thức hoạt động của hội chợ triển lãm sách Paris. Năm 2011, lần đầu tiên, ban tổ chức mời khách danh dự không phải một nước như truyền thống mà tới 5 nước, Bắc Âu, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan và Thụy Điển. Năm nước có điểm chung: hiện vẫn được xếp vào 10 nước hạnh phúc nhất toàn cầu; loại hình trinh thám hình sự nở rộ và trở thành một đặc sản văn chương đang vượt qua loại hình ấy của Hoa Kỳ. 40 nhà văn Bắc Âu được mời tới hội chợ triển lãm sách. Trung tâm của giao lưu năm nay là cây bút Thụy Điển lừng danh Henning Mankell và 9 nữ hoàng phương Bắc, hầu hết còn trẻ. Văn học Bắc Âu được bàn tán đặc biệt sôi nổi, nhất là cuộc cách tân ngoạn mục của Stig Larsson trong Thời hoàng kim hút hồn. Không lặp lại những chuyện giật gân, kiểu bàn tính mưu mô, hăm dọa, đuổi bắt, chém giết tàn bạo, yêng hùng… quen thuộc trong vô số sách trinh thám xưa nay, bộ tiểu thuyết núp bóng hình sự này phát lộ những con người hiện đại đáng khâm phục và noi theo cũng như sự thật đáng báo động về một xã hội lâu nay vẫn được xem là hoàn toàn tốt đẹp. Cô gái có vẻ bụi đời Lisbeth Salander rất giỏi vi tính và tin học. Cô đã kết hợp với viên cảnh sát điều tra Mikael Blomkvist để dần dần lần ra dấu vết vụ phạm pháp tưởng không sao làm sáng tỏ được. Thắng lợi của họ có được, phần nhờ tính quyết đoán và cương quyết truy tìm tội phạm đến cùng, phần nhờ sự giúp đỡ của nhiều người dân mà họ tiếp xúc. Giống cô gái bụi đời, viên cảnh sát điều tra cũng có những điều không hoàn thiện, dưới mắt người đời. Song cả hai tỏ rõ là những người biết điều, chân thực, giàu lòng nhân ái, vị tha và đại lượng. Hai nhân vật hư cấu được miêu tả sinh động đến nỗi không ít độc giả tưởng họ là hai con người bằng xương bằng thịt đang sống xung quanh mình. Thành tựu văn chương cùng loại xưa nay vốn hy hữu, nó tạo nên hấp lực vui mừng của bộ sách dày sụ. Nếu bộ Harry Potter hấp dẫn chủ yếu thanh thiếu niên, thì độc giả của Thời hoàng kim đa phần dành cho người lớn, nhất là dân lao động. Người thì đọc đến quên cả công việc hay gia đình, kẻ thì bỏ tất cả đấy, đọc liền tù tỳ 8 ngày cho hết 2.000 trang. Một số tiếc rằng câu chuyện không được tiếp tục. Sinh thời, dù bản thảo còn ở nhà, Stig Larsson đã rất kiêu hãnh về tác phẩm của ông, và tin rằng nó sẽ được đón nhận nồng nhiệt và đứng lại được trên văn đàn.
Một lý do để ông tin và người đọc tiếc như thế là những khám phá xã hội chân thực đến kỳ lạ, bộc lộ những mặt chưa ổn của xã hội Thụy Điển, một đất nước nằm ngoài cuộc Đại chiến II, một mô hình dân chủ nổi tiếng mẫu mực. Nhiều năm liền, tổ quốc quê hương của Stig Larsson, do sự an bình và chất nhân văn rất cao, đã thành một miền đất hứa và dân nhập cư tăng lên vùn vụt, có khu vực lên tới 15 % dân số. Nhiều tệ nạn và lối sống xa lạ, thậm chí phản dân chủ và nhân đạo, nhập vào. Tiêu cực muôn mặt đâm chồi nảy lộc. Mảnh đất màu mỡ cho trinh thám hình sự xuất hiện. Cơn sốt truyện vụ án bùng lên ở phương Bắc. Dĩ nhiên, mục đích ban đầu của các cây bút nặng lòng với xứ sở thần tiên của họ là báo động về sự xuống cấp văn hóa và văn minh của quê hương mình. Đã vang lên không phải ở một nơi hay trong một thời điểm tại các quốc gia thường bé nhỏ của phương Bắc câu hỏi hối thúc được trả lời: Ai đã giết chết bán đảo Scandinave đức hạnh? Lời đáp lúc đầu kết tinh thành nhiều cuốn tự sự giàu chất hiện thực, khiến cho không ít nhà nghiên cứu thốt lên rằng trên thiên đường, tội ác vẫn có thể lộ diện. Sự độc đáo này được đón tiếp tức thì. Trước tiên ở Hà Lan và Đức, Pháp chậm chân hơn, thứ ba. Mấy năm nay, tiểu thuyết trinh thám hình sự Bắc Âu ồ ạt đổ vào phần châu Âu còn lại, kinh phí cũng được đầu tư vào đây và người ta đua nhau viết về chuyện ân oán giang hồ. Các chuẩn mực bị phá bỏ. Không hiếm người hám lợi lao vào thứ văn cốt ly kỳ, bất chấp nhớp nhúa và phản cảm. Chính ở những cuộc thảo luận về tự sự trinh thám Bắc Âu tại hội chợ triển lãm sách Paris vừa rồi, công chúng được biết rằng nhà văn Lars Kepler thực ra là bút danh của một đôi vợ chồng đều là giáo sư văn học...
Nguồn : Tạp chí VHNT số 324, tháng 6-2011
Tác giả : Nhật Thảo Quân