1. Đặt vấn đề
Để luận giải về một số khuynh hướng nghệ thuật và xu hướng phát triển của nền sân khấu Việt Nam nửa thế kỷ qua không thể không đề cập đến bối cảnh lịch sử, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn lịch sử đầy những biến động lớn lao của đất nước, bởi đó là những tác nhân để lại dấu ấn sâu sắc lên con đường phát triển của văn học, nghệ thuật.
Trong lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, quãng thời gian dài nửa thế kỷ qua (1975-2025) là một giai đoạn vô cùng đặc biệt. Chiến thắng lịch sử 30-4-1975 đã khép lại quá khứ dài hàng thế kỷ với những cuộc chiến tranh nối tiếp chiến tranh, mở ra kỷ nguyên mới của đất nước Việt Nam toàn vẹn, thống nhất từ Bắc chí Nam, nhân dân sống và xây dựng đất nước trong hòa bình, hạnh phúc.
50 năm qua, Việt Nam đã có nhiều đổi thay căn bản trong mọi mặt đời sống xã hội. Sự đổi mới trong đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong chính sách vận hành và quản lý nền kinh tế đất nước của Nhà nước, đã tạo nên những tác động to lớn đối với toàn bộ xã hội, thể hiện ở mọi lĩnh vực, ngành nghề... Chưa bao giờ hiện thực cuộc sống đất nước ta lại phong phú và đổi mới như giai đoạn lịch sử này. Đây chính là hiện thực sinh động, mở ra nhiều cơ hội cho văn học, nghệ thuật khai thác và sáng tạo.
Nghệ thuật sân khấu là nghệ thuật tổng hợp. Nhiều người thường hiểu rằng, đặc tính “tổng hợp” của sân khấu là tổng hợp của nhiều thành phần nghệ thuật cấu thành nên bộ môn nghệ thuật độc đáo này, tổng hợp giữa bộ phận sáng tạo và bộ phận thường thức, để tạo nên một vở diễn sân khấu trọn vẹn... Nhưng để tạo nên các tác phẩm sân khấu có giá trị, nói rộng ra là cả nền nghệ thuật sân khấu đất nước lớn mạnh, thì tính “tổng hợp” còn bao hàm cả những yếu tố mang tầm vóc quốc gia, đó là đường lối chính trị của Đảng lãnh đạo, là các chính sách của Nhà nước có tác động tích cực đến văn hóa, nghệ thuật, hướng tới mục đích cuối cùng là sự thỏa mãn tâm tư, ước vọng của quần chúng nhân dân trong đời sống tinh thần.
Trước hiện thực cuộc sống sinh động và nhiều biến động của đất nước trong 50 năm qua, con đường phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam nói chung, sân khấu nước nhà nói riêng, đã trải qua nhiều cung bậc thăng, trầm với vô vàn sự kiện khác nhau. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả chỉ xin nói về một số sự kiện có ý nghĩa bao quát, có tầm ảnh hưởng để tạo nên một khuynh hướng nghệ thuật hay xu hướng phát triển của sân khấu trong giai đoạn lịch sử này.
2. Những dấu ấn lịch sử và các khuynh hướng nghệ thuật
Đất nước thống nhất, sân khấu kịch bừng sáng
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đời sống sân khấu ở hai miền Bắc, Nam có sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu thể loại (nhìn từ góc độ người xem), trong cấu trúc khán giả, và trong khuynh hướng nghệ thuật.
Để thấy được sự thay đổi này, trước hết cần nhìn lại thực tiễn sân khấu ở hai nửa đất nước trước năm 1975. Chỉ xét trên bình diện cơ cấu loại hình, thể loại, thì điểm giống nhau là ở cả hai miền Bắc, Nam đều có hai dòng sân khấu song song tồn tại: sân khấu kịch hát (tuồng, chèo, cải lương) và sân khấu kịch nói (drama). Nhưng nếu nhìn nhận từ góc độ khán giả và yếu tố văn hóa vùng, miền thì có sự khác nhau: ở miền Nam - cái nôi sinh ra nghệ thuật đờn ca tài tử - tiền thân của sân khấu cải lương, thì cải lương vẫn là món ăn tinh thần được đại đa số người dân say mê nhất. Còn ở miền Bắc, tuy kịch nói ra đời sau nhưng nhanh chóng chiếm vị thế nổi trội hơn so với sân khấu cổ truyền tuồng, chèo. Trước năm 1975, ở Sài Gòn cũng có hoạt động kịch nói khá sôi nổi, tiêu biểu nhất là Đoàn kịch nói Kim Cương, nhưng chủ yếu ở thành phố Sài Gòn, trong khi đó trên vùng đất Nam Bộ cải lương là bộ môn sân khấu được người dân yêu thích nhất, có nhiều đoàn, gánh hoạt động rộng khắp từ thành thị đến thôn quê.
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, kịch nói cùng các loại hình sân khấu và ca múa nhạc tiến vào miền Nam, đã mang lại một không khí tưng bừng trong những ngày đầu chiến thắng. Lần lượt nhiều đoàn nghệ thuật, các nhà hát ở Hà Nội thực hiện nhiều đợt lưu diễn ở phía Nam rất thành công. Khán giả miền Nam nồng nhiệt đón chào các nghệ sĩ miền Bắc, vui mừng thưởng thức các vở diễn kịch nói của Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Kịch Trung ương, Nhà hát Kịch Hà Nội... Tuy nhiên, không lâu sau đó, đất nước bị lâm vào muôn vàn khó khăn thời hậu chiến, đời sống nhân dân cũng như mọi lĩnh vực xã hội đều chịu nhiều thiếu thốn. Mất khoảng 10 năm, sân khấu cả nước, kể cả loại hình vốn mạnh mẽ và dễ thích nghi như kịch nói, đều rơi vào khủng hoảng.
Đến những năm đầu thập kỷ 80 của TK XX, sân khấu kịch dần lấy lại phong độ. “Trước những vấn đề tiêu cực của một xã hội đang có nhiều biến chuyển phức tạp, kịch nói đã cất lên tiếng nói phê phán rất phù hợp với lòng dân. Nhiều thế hệ khán giả còn nhắc mãi về Hội diễn sân khấu năm 1985 tại TP.HCM với 5 vở kịch: Nhân danh công lý, Tôi và chúng ta, Nhân chứng và lịch sử, Mùa hè ở biển, Đỉnh cao mơ ước được báo chí và khán giả mệnh danh là “năm chiếc xe tăng tiến vào chinh phục Sài Gòn về mặt văn hóa”. Đó cũng là những năm tháng hàng ngàn, vạn người dân cả nước háo hức đón xem những vở kịch của Lưu Quang Vũ trên sân khấu hay trên sóng truyền hình... Có thể nói, đây là thời kỳ bừng sáng của sân khấu nói chung, sân khấu kịch nói riêng, báo hiệu một sự chuyển mình dữ dội sắp đến trên đất nước ta (1).
Sự giao lưu hoạt động biểu diễn của sân khấu hai miền Nam - Bắc, chủ yếu là biểu diễn kịch nói, diễn ra khá thường xuyên trong thập niên đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất, đã có tác động mạnh mẽ làm thay đổi thị hiếu của khán giả miền Nam, những người trước đây vốn rất yêu thích nghệ thuật cải lương, giờ đây rất say mê kịch nói; đồng thời, đây là sự gợi mở, sự khích lệ các nghệ sĩ sân khấu miền Nam, những người vốn rất nhạy bén, năng động với cơ chế thị trường, thôi thúc họ tìm hướng đi mới cho sân khấu kịch TP.HCM. Với chính sách Đổi mới của Đảng (1986), tiếp đến là chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật, từ những năm cuối thập niên 80 của TK XX, sân khấu kịch TP.HCM nở rộ, làm nên một khuynh hướng mới của sân khấu kịch trên thành phố mang tên Bác.
Mở đầu là sự ra đời của Sân khấu 5B trên đường Võ Văn Tần. Kịch 5B đã hoạt động rất hiệu quả với mô hình sân khấu nhỏ, đã đưa kịch đích thực đến với khán giả TP.HCM và từ đây khán giả đã quan tâm đến kịch và tạo nên thói quen xem kịch sau này. Trong những năm cuối thập niên 80 và gần suốt thập niên 90 của TK XX, sân khấu 5B Võ Văn Tần đã là “địa chỉ đỏ” không chỉ đối với khán giả ở TP.HCM, mà còn là nơi muốn đến của nhiều người yêu sân khấu cả nước mỗi khi có cơ hội đến thành phố. Nói tới khán giả của sân khấu kịch TP.HCM không thể không kể tới thành phần khán giả đông đảo là những người quê ở miền Bắc, hoặc tập kết ra Bắc, từ sau ngày đất nước thống nhất đã chuyển vào TP.HCM sinh sống và công tác, họ đã mang theo những nếp sống văn hóa, thị hiếu nghệ thuật vốn đã rất gần gũi với loại hình sân khấu kịch nói từ những năm tháng sống ở đất Bắc. Đây là một bộ phận khán giả đông đảo khiến cho những người đứng đầu các đơn vị sân khấu xã hội hóa không thể không quan tâm, tìm cách thu hút họ đến với sân khấu của mình.
Từ thập niên cuối cùng của TK XX và thập niên đầu của TK XXI, sân khấu xã hội hóa TP.HCM nở rộ. Sau những năm tháng tích lũy kinh nghiệm từ sân khấu nhỏ 5B, những nghệ sĩ có uy tín nghề nghiệp như Thành Lộc, Kim Xuân, Thành Hội, Ái Như, Phước Sang, Hồng Vân, Thanh Hoàng... đã đủ sức để tạo dựng cho mình một “lãnh thổ” với cá tính sáng tạo. Từ đây thành phố đã có thêm nhiều địa chỉ diễn kịch gắn với tên tuổi của các nghệ sĩ tài năng và tâm huyết, nhiều người vừa là diễn viên, đạo diễn, vừa là nhà quản lý năng động, nhạy bén với cơ chế thị trường, là những “ông bầu”, “bà bầu” làm cho sân khấu thành phố hàng đêm sáng đèn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu xem kịch của công chúng yêu kịch. Khán giả có thể thỏa sức lựa chọn để thưởng thức nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, giữa những địa chỉ quen thuộc như sân khấu 5B Võ Văn Tần, Idecaf, Kịch Sài Gòn, Nụ cười mới, Kịch Hồng Vân (Kịch Phú Nhuận, Superbowl), Thế giới trẻ, Hoàng Thái Thanh...
Có thể nói, quãng thời gian khoảng 20 năm ấy là thời kỳ hoàng kim của sân khấu kịch TP.HCM, nơi sân khấu hằng đêm sáng đèn, thu hút đông đảo khán giả là cư dân của thành phố đông dân nhất nước, và cả những người yêu sân khấu, thích xem kịch, từ mọi miền có dịp tới TP.HCM.
Hiện tượng Lưu Quang Vũ
Nói về sân khấu Việt Nam thời kỳ 50 năm đất nước thống nhất, không thể không nói tới những vở kịch sống mãi với thời gian của nhà viết kịch tài hoa Lưu Quang Vũ (17-4-1948 – 29-8-1988) - người đã làm nên “hiện tượng sân khấu có một không hai” trong lịch sử phát triển của sân khấu Việt Nam.
Vào đầu những năm 1980, Lưu Quang Vũ nổi lên như một hiện tượng đặc biệt của sân khấu Việt Nam TK XX. Chỉ trong vòng 10 năm (1978-1988), ông đã sáng tác hơn 50 kịch bản sân khấu, hầu hết các kịch bản này đã được dàn dựng và biểu diễn. Vào những thập niên 1980-1990, có nhiều đêm sân khấu cả ba miền đều diễn kịch Lưu Quang Vũ, hay rất nhiều khi người người, nhà nhà đều ngồi trước màn hình ti vi để xem kịch Lưu Quang Vũ...
Thành công của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ được giải thích trước hết ở cái mẫn cảm nghệ thuật của người nghệ sĩ. Điều may mắn cho anh là cuộc sống xã hội - chính trị Việt Nam những năm 80 của TK XX có đầy biến động, tiềm ẩn bên trong nó nhiều yếu tố mới mẻ đang lên. Hiện thực đầy tính kịch, tính xung đột giữa cái cũ lạc hậu, trì trệ với cái tiến bộ đòi hỏi phải đổi mới, là miếng đất màu mỡ cho anh những chất liệu tươi nguyên. Ngòi bút Lưu Quang Vũ đã xông vào hầu hết các ngõ ngách của cuộc sống, cũng như ngõ ngách tâm hồn của con người Việt Nam đương thời. Anh không hạn chế mình vào loại đề tài nhất định nào, bởi đâu đâu anh cũng phát hiện ra vấn đề thiết yếu để phản ánh, để bàn luận. “Những vở kịch của Lưu Quang Vũ được đông đảo mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi đón nhận vì kịch của anh đề cập đến những vấn đề rất đời thường, rất gần gũi. Người xem nhiều khi thấy thấp thoáng đâu đó trong những nhân vật kịch là hình bóng của mình, của những người thân hay bạn bè. Mà tác giả lại nói rất đúng, rất trúng những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của họ. Nét mới trong kịch và cũng là đóng góp của Lưu Quang Vũ là ở chỗ anh không chỉ xem xét các vấn đề xã hội như các vấn đề của cuộc đấu tranh vì cuộc sống mới, mà còn như các vấn đề về sự thử thách mang tính chất đạo lý, về những cảm xúc tâm lý bên trong của các nhân vật. Thử điểm lại một loạt vở đề tài hoàn toàn hiện đại như Tôi và chúng ta, Nếu anh không đốt lửa, Nguồn sáng trong đời, Người tốt nhà số 5, Cô gái đội mũ nồi xám, Bệnh sĩ... ta thấy tác giả đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội hết sức nóng bỏng, mới mẻ; nhưng liền với chúng là những vấn đề cơ bản, có tính chất vĩnh cửu, liên quan đến hành vi đạo đức của con người, bàn về hạnh phúc, và thể hiện những cung bậc tâm lý con người. Ngay cả ở những vở xây dựng từ chất liệu dân gian, dã sử, bằng bút pháp không phải là tả thực như ở các vở hiện đại, mà sử dụng các yếu tố viễn tưởng, tưởng tượng phóng khoáng hay tượng trưng, biểu tượng như các vở: Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Ông vua hóa hổ; Hoa cúc xanh trên đầm lầy... thì cái đích cuối cùng là chuyển tải những vấn đề mang ý nghĩa rất hiện đại, về cái thiện và cái ác, về lẽ sống và cái chết, về tình yêu và nghĩa vụ...” (2).
Những vở kịch của Lưu Quang Vũ có sức hút mạnh mẽ đối với đông đảo công chúng đương thời bởi đây là tiếng nói phê phán trực diện những tiêu cực trong xã hội Việt Nam sau chiến tranh, thể hiện tinh thần công dân trước vận mệnh của đất nước, nói lên những khao khát của nhân dân về một cuộc sống ấm no, bình đẳng, nhân ái... “Mỗi vở kịch của Lưu Quang Vũ là một phát hiện vấn đề mới, hoặc cách nhìn mới về vấn đề nêu ra trong đó. Ở vở Cô gái đội mũ nồi xám, anh bàn về hạnh phúc, về con đường đi tìm hạnh phúc, về ước mơ cao xa của con người và hiện thực để thực hiện ước mơ ấy; hiện thực không phải bao giờ cũng suôn sẻ như ý muốn, nhưng cái chính là phải biết dám nghĩ, dám làm những điều người khác không dám làm. Ở vở Tôi và chúng ta, hay vở Nếu anh không đốt lửa, anh đã dám nói những điều mà nhiều người lúc đó không dám nói vì chúng đụng chạm đến cả một cơ chế khi bàn về vấn đề tương quan giữa quyền lợi và nghĩa vụ của con người, vạch rõ cái nguy hiểm của chế độ bao cấp, nhất là bao cấp về trí tuệ, vì nó là lực cản của sự phát triển kinh tế, xã hội” (3).
Sức hấp dẫn của các vở kịch của Lưu Quang Vũ xuất phát từ nội dung kịch sâu sắc, được chuyển tải bởi một nghệ thuật biên kịch tài hoa, tạo nên những vở diễn sân khấu vừa có tính tư tưởng cao, vừa có tính nghệ thuật vô cùng cuốn hút, làm lay động lòng người. Có lẽ đây là nguyên nhân khiến cho những vở kịch của Lưu Quang Vũ đến hôm nay vẫn hấp dẫn một bộ phận khá đông đảo khán giả, nhiều người vẫn thích xem kịch Lưu Quang Vũ.
Nắm bắt được mong muốn của công chúng yêu sân khấu, vài năm nay, Nhà hát Tuổi trẻ và Nhà hát Kịch Việt Nam đã dựng mới một số kịch bản của Lưu Quang Vũ và đưa vào kế hoạch biểu diễn thường niên mang tên “Mùa kịch Lưu Quang Vũ”, diễn ra vào khoảng thời gian tháng 7, tháng 8 hằng năm, gồm một số vở như Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Hoa cúc xanh trên đầm lầy; Bệnh sĩ; Ông không phải là bố tôi; Người tốt nhà số 5; Lời thề thứ chín... Đây thực sự là một hiện tượng chưa bao giờ có trong đời sống sân khấu ở Việt Nam từ trước tới nay. Chúng tôi tin rằng nhiều vở kịch của Lưu Quang Vũ sẽ còn sống mãi với thời gian.
Cuộc “cách tân” chèo thất bại, chèo tìm lại chính mình
Trên con đường phát triển của mình, sân khấu cổ truyền (tuồng, chèo) lúc nào cũng ở tâm thế là luôn phải cố gắng để hòa nhập với cuộc sống mới, tìm cách để đáp ứng nhu cầu của khán giả thời hiện đại... Ở những giai đoạn lịch sử nổi bật của dân tộc như thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp đến là hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đặc biệt là khi đất nước chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, nghệ thuật truyền thống luôn đối diện với các câu hỏi lớn: Làm thế nào để sân khấu truyền thống có thể hòa nhịp được với xã hội hiện đại? Cần phải làm gì để khán giả hôm nay không quay lưng với tuồng, chèo, cải lương? Tìm được lời giải thật không đơn giản!
Chính sách mở cửa và tăng cường giao lưu quốc tế của đường lối đổi mới đã có tác động rõ rệt đến ngành Văn hóa, nghệ thuật nước ta, trong đó lĩnh vực sân khấu cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng, cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhờ chính sách mở cửa nên đông đảo người dân, nhất là giới trẻ, được tiếp xúc với nhiều loại hình nghệ thuật mới mẻ, hiện đại của thế giới, nhưng cùng với đó có cả những sản phẩm văn hóa độc hại, không thể kiểm soát... Đây là một trong những nguyên nhân khiến thanh thiếu niên bị cuốn hút vào những hình thức giải trí mới, xa rời nghệ thuật dân tộc, một bộ phận lớn quay lưng với sân khấu truyền thống. Bên cạnh đó, chủ trương chuyển đổi khá đột ngột trong chính sách quản lý, vận hành các đơn vị nghệ thuật sân khấu theo cơ chế thị trường khiến các nhà hát, đoàn nghệ thuật lúng túng, khó khăn... Vào những thập niên cuối TK XX, sân khấu truyền thống rơi vào khủng hoảng, khán giả thưa thớt, đời sống nghệ sĩ bị ảnh hưởng rõ rệt. Trong bối cảnh khó khăn đó, có một số đơn vị nghệ thuật (chủ yếu thuộc sân khấu chèo), với mục đích kéo khán giả đến với sân khấu, đã dàn dựng những tác phẩm chủ yếu mang tính giải trí, thiên về những pha giật gân, những màn bắt mắt, với trang phục sân khấu không phù hợp với thuần phong mỹ tục của văn hóa dân tộc... Cách làm phổ biến thời bấy giờ là ê-kíp sáng tạo là một nhóm gồm tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ, hợp tác với nhau để “cải tiến” chèo: về kịch bản, viết theo kiểu kịch bản cho sân khấu kịch nói (theo phương pháp Aristot, thông qua ngôn ngữ đối thoại - văn xuôi), chứ không phải theo cấu trúc tự sự, ngôn ngữ theo lối văn biền ngẫu, văn vần và thơ của chèo cổ; về âm nhạc, nhạc sĩ sáng tác các ca khúc mới, chứ không sử dụng các làn điệu chèo cổ; về dàn dựng, đạo diễn chú trọng sử dụng các mảng miếng thiên về hình thức sao cho hấp dẫn và hợp với thị hiếu của giới trẻ đương thời.
Ở một chừng mực nào đó, trong số các vở diễn dàn dựng theo cách làm này cũng có một số vở đã thu hút được khán giả đến rạp khá đông, nhờ vào câu chuyện kịch hấp dẫn, diễn viên chính xinh đẹp, nghệ sĩ ca “truyền cảm”... Tiêu biểu cho các vở “kịch hát mới” (theo tên gọi của chính các nghệ sĩ sáng tạo ra khuynh hướng này đặt ra) là vở Nàng Si-Ta (tác giả Lưu Quang Thuận - Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Doãn Hoàng Giang, nhạc sĩ: Bùi Đức Hanh, Đoàn Chèo Hà Nội dàn dựng). Vở diễn này đã từng là một hiện tượng của sân khấu Thủ đô những năm 1980, thu hút đông đảo khán giả đến với sân khấu, có những đóng góp đáng được ghi nhận về sáng tạo nghệ thuật, về tác động tinh thần xã hội trong bối cảnh sân khấu đang đìu hiu.
Dù sao, khuynh hướng cải tiến chèo theo kiểu “kịch pha hát” đã gây phản ứng mạnh mẽ trong giới chuyên môn. Một số cuộc hội thảo về sân khấu được tổ chức, ở đó, các nhà nghiên cứu lý luận cũng như các nhà chuyên môn thực hành sân khấu đã thẳng thắn phê phán cách làm này của một số đạo diễn và đơn vị nghệ thuật, cho rằng làm như vậy là “phá chèo”, “phản truyền thống”, làm mất đi những cái hay, cái đẹp của nghệ thuật chèo truyền thống; họ không công nhận đấy là những vở chèo, mà gọi chúng là “kịch cắm ca”, có người gọi là “kịch chèo”... Có thể có người coi cách làm này như một xu hướng “cách tân” chèo, nhưng với những người có thái độ bao dung hơn thì cho rằng đây chỉ là giải pháp nhất thời, để giải quyết tình thế khó khăn cho các đoàn chèo khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vào những năm 80-90 của thế kỷ trước. Sau khi có nhiều người của giới chuyên môn, cũng như của một bộ phận khán giả hiểu biết nghệ thuật chèo, thẳng thắn phê phán kiểu làm “chèo mới” như vậy, thì xu hướng này đã tự điều chỉnh và rút lui.
Tuy nhiên, câu hỏi: “Làm thế nào để xử lý hài hòa vấn đề bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo trong xã hội hiện đại?” vẫn luôn là điều trăn trở đối với các tác giả, đạo diễn, diễn viên chèo trên con đường sáng tạo của mình. Trong số các tác giả, tác phẩm thành công của sân khấu chèo hiện đại không thể không nhắc tới cố tác giả, đạo diễn chèo Tào Mạt và bộ ba chèo Bài ca giữ nước (Lý Thánh Tông chọn người tài, Ỷ Lan Nhiếp Chính, Lý Nhân Tông kế nghiệp) do ông sáng tác và dàn dựng cho Nhà hát Chèo Quân đội, được công diễn từ những năm 1979-1985. Bài ca giữ nước đã gây tiếng vang lớn, được giới chuyên môn sân khấu đánh giá cao và đông đảo công chúng khán giả đón nhận và khen ngợi.
“Những thành công của tác giả, đạo diễn Tào Mạt và tập thể nghệ sĩ sáng tạo trong bộ ba chèo Bài ca giữ nước đã mang lại bài học quý giá cho những người làm chèo hiện đại, bài học đó là: Công việc sáng tác, dàn dựng và biểu diễn những vở chèo hiện đại chỉ thực sự thành công khi tác giả, đạo diễn và các nghệ sĩ am hiểu, nắm vững những nguyên tắc nghệ thuật của nghệ thuật chèo truyền thống và biết vận dụng chúng một cách sáng tạo vào tác phẩm hiện đại. Tào Mạt đã thành công bởi ông biết chọn lọc và phát huy những giá trị tinh hoa của chèo cổ, biết cách làm cho vẻ đẹp vốn có của chèo cổ vừa lung linh, đẹp đẽ, vừa gần gũi hơn với cuộc sống hôm nay” (4).
Những bài học được rút ra từ những thành công và cả từ những thất bại khi muốn cải tiến nghệ thuật chèo, chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm: muốn làm chèo hiện đại và chèo đề tài hiện đại thì cần phải nắm rất vững chèo truyền thống và cần biết tiếp thu, kế thừa những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật chèo truyền thống, quan trọng hàng đầu là khâu sáng tác kịch bản, từ đó chi phối khâu dàn dựng, thiết kế mỹ thuật sân khấu và nghệ thuật biểu diễn của diễn viên, trong đó có một số nguyên tắc được xem là bất di bất dịch như: kết cấu tự sự trữ tình, phương pháp nghệ thuật tả ý. Đây là những nguyên tắc nghệ thuật làm nên bản sắc độc đáo của nghệ thuật chèo truyền thống (5).
(Còn nữa)
_______________________
1. Xem thêm: Lê Thị Hoài Phương, Tư tưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với sự phát triển sân khấu dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 533, 2023, tr.68.
2, 3. Xem thêm: Lê Thị Hoài Phương, Văn hóa nghệ thuật Việt Nam đổi mới và hội nhập, Nxb Sân khấu, Hà Nội, 2019, tr.306, 309.
4. Xem thêm: Lê Thị Hoài Phương, Từ nghệ thuật diễn xướng dân gian phát triển lên thành loại hình sân khấu Chèo chuyên nghiệp: những thăng trầm trên con đường phát triển của Chèo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Bảo vệ và phát huy giá trị di sản trình diễn dân gian và nghệ thuật Chèo trong xã hội đương đại, Nxb Văn hóa dân tộc, tr.282-299.
5. Tham luận tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6-2025.
GS, TS LÊ THỊ HOÀI PHƯƠNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 624, tháng 11-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
