Nghệ thuật sân khấu Tuồng trong thời đại mới

Cảnh trong vở “Làm vua” của Nhà hát Tuồng Việt Nam - Ảnh: tư liệu

 

1. Dẫn nhập

Sân khấu nghệ thuật truyền thống Việt Nam là một kho tàng văn hóa vô giá, phong phú và đa dạng, hội tụ tinh hoa bao đời của dân tộc, bắt nguồn từ sinh hoạt của cộng đồng 54 dân tộc anh em, cùng những phong tục, tập quán tốt đẹp được lưu truyền từ ngàn xưa. Nó còn khởi nguồn từ các lễ hội đậm đà ý nghĩa, những tín ngưỡng dân gian sâu sắc, và sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý tôn giáo.

Sân khấu nghệ thuật truyền thống nói chung và nghệ thuật tuồng nói riêng, tự hào với lịch sử lâu đời và sự phát triển mạnh mẽ trên khắp ba miền đất nước. Trải qua nhiều thế kỷ hình thành và hoạt động, nghệ thuật sân khấu tuồng đã định hình bản sắc riêng, đúc kết tinh hoa từ kinh nghiệm soạn trò (viết kịch bản) và trình diễn. Nhờ đó, nghệ thuật tuồng đã tạo nên những đặc điểm độc đáo của một loại hình kịch hát, mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc.

Mỗi người con Việt Nam đều có quyền tự hào khi được sống và phát triển trong cái nôi văn hóa truyền thống phong phú ấy. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển mạnh mẽ, văn hóa Việt Nam vẫn giữ vững được bản sắc cốt lõi mà không hề bị mai một, thậm chí còn được làm giàu thêm. Chính vì lẽ đó, dù cho sự nghiệp gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam còn đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, mỗi cá nhân được gánh vác sứ mệnh bảo tồn và phát huy nghệ thuật tuồng truyền thống cần phát huy hết tài năng và trí lực của mình. Chúng ta phải không ngừng nghiên cứu, tổng hợp những kiến thức cơ bản về sân khấu truyền thống, làm nổi bật hình tượng và những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc, để tô điểm thêm những trang sử hào hùng hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông qua lăng kính của sân khấu tuồng nói riêng và sân khấu truyền thống Việt Nam nói chung.

2. Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật tuồng

Việc xác định chính xác thời điểm ra đời của nghệ thuật sân khấu tuồng Việt Nam vẫn còn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng tuồng đã hình thành và phát triển từ rất lâu đời trong lịch sử dân tộc. Nhiều tài liệu ghi chép cho thấy những dấu vết sơ khai của tuồng đã xuất hiện từ thời Đinh, Lê, Lý (TK X-XII). Đến thời Trần (TK XIII-XIV), tuồng bắt đầu phát triển với quy mô rõ rệt hơn, khi đã hội tụ đủ các yếu tố cấu thành một loại hình nghệ thuật biểu diễn: ca, múa và diễn kể lại những câu chuyện trong quá khứ. Dù đây vẫn được xem là giai đoạn khai sáng ban đầu, nó đã đặt nền móng vững chắc cho tuồng. Đến đời Lê (TK XV), văn chương và âm nhạc trong tuồng được chú trọng, giúp nghệ thuật này tiến thêm một bước đáng kể. Đáng tiếc, dưới thời Lê Thánh Tông, nghệ thuật sân khấu, bao gồm cả tuồng, lại bị loại khỏi cung đình và thậm chí bị coi là “nghề xướng ca vô loài”.

Tuy nhiên, vượt qua định kiến, tuồng vẫn tìm được con đường phát triển mạnh mẽ. Đào Tấn - nhà thơ, nhà viết TK XIX, người được tôn vinh là hậu tổ của nghệ thuật sân khấu tuồng - đã ghi lại một giai thoại quan trọng. Dưới thời Lê Trung hưng (1532-1788), danh sĩ Đào Duy Từ (1572-1634), vì xuất thân là con một kép hát nên không được phép đi thi. Phẫn uất trước quy định bất công, ông đã rời Đàng Ngoài vào phủ Quy Nhơn (Bình Định). Trong những lúc nhàn rỗi, Đào Duy Từ đã dùng đàn phách làm vui và chính từ đây, ông đã có công lao to lớn trong việc phát triển nghệ thuật tuồng tại Bình Định.

Vào giữa TK XVIII, nghệ thuật tuồng tại Bình Định đã phát triển khá mạnh mẽ, là một trong những cái nôi quan trọng của hát tuồng, với công lao gây dựng không thể phủ nhận của Đào Duy Từ. Dù chưa tìm thấy vở tuồng gốc nào từ thời kỳ này, nhưng qua nhận xét của Đào Tấn, chúng ta biết rằng tuồng của Lộc Khê Hầu (tức Đào Duy Từ) có nhiều điểm khác biệt so với tuồng ngày nay, đặc biệt là về âm vận. Trong khi tuồng của Đào Duy Từ không quá chú trọng đến âm vận, thì tuồng hiện đại lại coi âm vận là một yếu tố không thể bỏ qua.

Thời kỳ hưng thịnh đỉnh cao của hát tuồng chính là cuối TK XIX. Hát bội khi ấy đã có mặt rộng khắp từ Bắc chí Nam, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa xã hội. Từ vua chúa với rạp tuồng riêng trong cung đình, quan lại với các đoàn tuồng riêng, đến các địa phương với những gánh tuồng phục vụ nhân dân - tất cả đều minh chứng cho sức sống mạnh mẽ của nghệ thuật này. Con vua cháu chúa, quan lại không chỉ thưởng thức mà còn trực tiếp tham gia sáng tạo, viết tuồng; thậm chí có cả vua đích thân phê duyệt các bản tuồng. Giai đoạn này đã sản sinh ra vô số vở tuồng xuất sắc, cùng với rất nhiều tác giả tài năng và diễn viên xuất chúng.

Những tên tuổi tiêu biểu đã góp phần làm nên sự vẻ vang của tuồng trong giai đoạn này có thể kể đến ở khắp các miền. Tại Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Hà Tây (cũ): các tác giả như Nguyễn Văn Hiển; các nghệ sĩ biểu diễn lừng danh như bà Cả Tề, ông Cả Sợn, ông Sáu Đen, ông Tám, ông Ba Tuyên, ông Quang Tốn, bà Bạch Trà. Tại Nghệ An, Thanh Hóa có ông Lượng, ông Khoái, ông Tùng. Tại Huế có Diên Khánh Vương, Hàm Thuận, Hồ Quý Thiều cùng các diễn viên cung đình và các đoàn tuồng riêng của quan lại. Tại Quảng Nam, ngoài cụ Tuần An Quán, Nguyễn Hiển Dĩnh (được mệnh danh là hậu tổ của hát tuồng Quảng Nam), còn có các cây bút Phan Xuân Thân, Học Chỉ, Nghè Thạc với các diễn viên bậc thày như Cửu Đốc, Đội Em, Quyền Ngữ, Chánh Đệ. Tại Bình Định, nơi được xem là cái nôi của tuồng, có cụ Đào Tấn (được Nguyễn Hiển Dĩnh tôn là: “Thánh trung thành”), cùng các tác giả trước và sau ông như cụ Tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu, Vũ Đình Phương, Nguyễn Trọng Tri, Nguyễn Bá Huân, Tú Thám, ông Kiệm. Cùng với đó là các diễn viên nức tiếng như Bát Phàn, Chánh Ca Đông, Chánh Ca Chinh, Cửu Khi, Cửu Vị, Mười Thân, Minh Đức, Hoàng Chính, Tư Cá (theo PGS Tất Thắng, Lịch sử Nghệ thuật Tuồng thế kỷ XX (Sơ thảo), Nxb Sân khấu, 2021).

Quá trình tìm hiểu sự phát triển của nghệ thuật tuồng từ khi hình thành đến cuối TK XIX, đầu TK XX cho thấy một đặc điểm xuyên suốt: nghệ thuật này vốn là sản phẩm của chế độ phong kiến, do đó, sự phát triển của nó luôn gắn liền với hiện thực và từng giai đoạn của xã hội phong kiến. Đề tài của tuồng vô cùng phong phú, xoay quanh những giá trị cốt lõi như: Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, Tình. Tuy nhiên, chữ Trung (trung thành với vua, với nước) và các đề tài quân quốc luôn nổi bật trong các vở tuồng cổ. Về ngôn ngữ, đa số các vở tuồng đều sử dụng lối diễn đạt ước lệ, không cụ thể hóa bất kỳ địa danh hay nhân vật nào một cách quá chi tiết, mà thường mang tính biểu tượng cao.

3. Những nét đặc trưng nổi bật của nghệ thuật tuồng truyền thống

Để làm rõ hơn về đặc trưng và định hướng phát triển của tuồng trong bối cảnh hiện đại, GS, TS, NSND Đình Quang cho rằng: “Cha ông ta đã để lại cả một vốn bài bản, làn điệu, thân đoạn và trổ múa khá phong phú, nhưng trước hết là để thể hiện những nội dung và những con người của thời đại cha ông ta. Và những vốn hát múa đó đã phục vụ rất đắc lực cho nội dung những vở Tuồng Chèo mà cha ông ta đã sáng tạo ra. Nhưng dù chúng có phong phú đến đâu cũng không thể đáp ứng cho nội dung cuộc sống và con người của mọi thời đại? Hãy lấy một ví dụ cha ông ta đã sáng tạo ra bài bản, làn điệu, động tác cho một vị tướng xưa rất oai phong lẫm liệt, nhưng cha ông xưa đâu có băn khoăn cho việc một ông tướng đời nay phải hát múa thế nào đâu. Và chúng ta ngày nay, nếu không ỷ lại hay ăn bám vào cha ông, sẽ không thể để một đại tướng thời nay hát múa như một kép võ thời xưa được” (1). Quan điểm này nhấn mạnh một sự thật cốt lõi: vốn quý mà cha ông để lại là nền tảng vững chắc, nhưng không phải là khuôn mẫu bất biến cho mọi thời đại. Để nghệ thuật tuồng tiếp tục sống và phát triển, chúng ta cần có quyền và trách nhiệm sáng tạo thêm những bài bản, làn điệu, điệu bộ và trình thức mới mà thế hệ trước chưa có, nhưng lại vô cùng cần thiết để đáp ứng nhu cầu sáng tạo và phản ánh cuộc sống đương đại.

Về cấu trúc văn học và âm nhạc của tuồng, Giáo trình đào tạo diễn viên bậc trung cấp Nghệ thuật hát Tuồng đã mô tả rất rõ: “Tuồng là loại kịch thơ hợp thể, bao gồm văn vần, văn xuôi và thơ các thể. Cụ thể, văn vần được dùng trong nói lối, văn xuôi trong hường và kẻ, còn các thể thơ đa dạng xuất hiện trong các điệu hát” (2). Điều đặc biệt là văn học tuồng không viết theo một giai điệu cụ thể của bản nhạc nào, mà chỉ tuân theo thể thơ quy định cho làn điệu ấy. Chính vì lời tuồng là lời thơ, câu tuồng là câu thơ, nên nó tự thân đã mang đậm tính âm nhạc. Do đó, ngay cả nói lối tuồng cũng mang tính ca hát. Điều này đòi hỏi diễn viên tuồng không chỉ đơn thuần đọc hay hát theo một cách thông thường, mà chủ yếu phải xướng, ngâm bằng ngữ khí để truyền tải trọn vẹn tình cảm vui, buồn của làn điệu.

Tiếp tục đào sâu vào đặc trưng nghệ thuật tuồng, nhà nghiên cứu Mịch Quang nhận định rằng: “Làn điệu tuồng, kể cả nói lối, chưa mang một nội dung âm nhạc rõ rệt, mà chỉ có tính chất buồn, vui nhộn, khỏe... chung chung”. Có lẽ chính vì thế mà người xưa đã phân biệt làn điệu với bài bản (3). Làn điệu tuồng mang tính mô hình rõ hơn vì nó chưa có khúc thức ca khúc cụ thể. Do đó, nội dung cụ thể của hát tuồng không nằm hoàn toàn trong nhạc điệu cơ bản mà chủ yếu nằm trong lời thơ, và cuối cùng là trong bài hát do diễn viên ứng diễn vào nhân vật, tình huống cụ thể. Nhìn chung, sân khấu tuồng truyền thống là một sân khấu tự sự, chuyên diễn kể lại những câu chuyện đã xảy ra, và đặc biệt là sân khấu tôn vinh những vị anh hùng trung quân ái quốc.

Để thấy được những tinh hoa và sự dày công nghiên cứu, sáng tạo mà cha ông đã để lại cho đến tận ngày nay, chúng ta có thể điểm qua vài nét đặc trưng nổi bật của nghệ thuật tuồng truyền thống:

Văn học trong tuồng: kịch thơ hợp thể độc đáo. Văn học được sử dụng cho sân khấu tuồng là một loại kịch thơ hợp thể, kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn vần, văn xuôi và các thể thơ đa dạng. Cụ thể, văn vần thường xuất hiện trong các đoạn nói lối, tạo nên sự hùng tráng, trang trọng; văn xuôi được dùng trong các phần hường và kẻ, mang tính đối thoại tự nhiên, linh hoạt; còn các thể thơ phong phú thì được lồng ghép tinh tế trong các điệu hát.

Hát tuồng và nói lối tuồng: lời nói thăng hoa thành âm nhạc. Trong đời sống, lời nói là phương tiện giao tiếp cơ bản. Trong nghệ thuật tuồng, nói lối Tuồng cũng xuất phát từ lời nói hằng ngày nhưng đã được các nghệ sĩ tiền bối cách điệu hóa, nâng tầm thành nghệ thuật mang tính âm nhạc, có giai điệu và tiết tấu. Mục đích chính là để biểu hiện các trạng thái tình cảm, tâm tư, nguyện vọng cũng như tính cách đặc trưng của mỗi nhân vật một cách sâu sắc. Vì vậy, hầu hết các loại làn điệu của tuồng như hát nam, hát khách, hát tẩu, cho đến các bài bản đều có nói lối đi kèm. Mọi nhân vật, từ tướng, đào, lão, kép đến các vai thị nữ hay quân báo, đều sở hữu những phong cách nói lối riêng, phù hợp với vị thế và cá tính của họ trên sân khấu.

Hóa trang: mặt nạ biểu tượng và ngôn ngữ màu sắc. Hóa trang trong nghệ thuật tuồng truyền thống được thực hiện theo lối vẽ ước lệ, tạo ra những mặt nạ mang tính biểu tượng cao cho từng loại nhân vật. Mỗi loại vai đều có mẫu hình riêng, thể hiện các nét khái quát nhưng vẫn sống động, phản ánh tính cách đa dạng của nhân vật. Các loại mặt nạ phổ biến bao gồm: kép, đào, lão, mụ... Màu sắc hóa trang chủ yếu dựa vào ba màu chủ đạo: trắng, đen, đỏ. Màu trắng thường dùng làm nền hoặc vẽ các chi tiết mắt, tạo sự thanh thoát, tinh anh. Màu đen dùng để vẽ các đường nét chính, giúp định hình độ tuổi và tính cách nhân vật (ví dụ: nét mạnh mẽ, dữ tợn hay uy nghi). Màu đỏ đóng vai trò quan trọng trong việc phân biệt tính cách và độ tuổi, thường biểu thị sự dũng cảm, trung thành hoặc đôi khi là sự nóng nảy, kiêu ngạo. Ngoài ra, màu tổng hợp được pha trộn từ nhiều màu khác nhau, tạo nền cho các nhân vật có tính cách phức tạp, giúp phân biệt các vùng miền và tuổi tác.

Múa tuồng (vũ đạo): sự kết tinh từ đời sống và võ thuật dân tộc. Vũ đạo tuồng được các thế hệ diễn viên chắt lọc từ những động tác sinh hoạt hàng ngày của con người và tiếp thu tinh hoa từ các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo, tế lễ, hội hè, và đặc biệt là võ thuật dân tộc. Tất cả được xây dựng thành một hệ thống vũ đạo từ đơn giản đến phức tạp. Về cơ bản, vũ đạo tuồng là những động tác hình thể của người diễn viên được cách điệu hóa, khoa trương hóa trên sân khấu, biểu diễn nhịp nhàng và cân đối với lời hát, tiết tấu, giai điệu, góp phần biểu hiện tính cách và tác phong nhân vật một cách rõ nét nhất.

Nghệ thuật biểu diễn tuồng: sự hòa quyện tổng thể. Nghệ thuật biểu diễn tuồng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời thoại (hát và nói lối) và động tác vũ đạo. Các nghệ sĩ tuồng thường tâm niệm câu “lời nào bộ nấy”, thể hiện sự đồng điệu tuyệt đối giữa lời nói và hình thể. Cảm xúc trên khuôn mặt, từ liếc mắt, nhăn mặt, run tay, cho đến các kỹ thuật xử lý trang phục, đạo cụ như bê, xiến, lỉa, cùng với hóa trang và phục trang, giúp diễn viên có thể thể hiện đa dạng các nhân vật với tính cách phức tạp. Có thể nói, nghệ thuật tuồng là bộ môn nghệ thuật cổ điển và bác học bậc nhất Việt Nam, một loại hình trình diễn cổ truyền được phát triển từ sân khấu dân gian, hình thành trên cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn rất phong phú và lâu đời của dân tộc.

4. Tuồng Việt Nam: từ giai đoạn hưng thịnh đến thách thức hiện tại

Sự phát triển của nghệ thuật tuồng truyền thống là một hành trình đầy thăng trầm lịch sử, với không ít giai đoạn thuận lợi xen lẫn khó khăn. Tuồng từng bị nhìn nhận như một “tàn dư phong kiến” - một cái nhìn thiếu toàn diện về giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, với tầm nhìn sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp thưởng thức và dành lời khen ngợi chân thành, giúp tuồng được đánh giá nghiêm túc và công nhận là một loại hình sân khấu đặc sắc của dân tộc.

Từ đó, tuồng bắt đầu giai đoạn phát triển rực rỡ: các nghệ nhân tài hoa từ Bắc, Trung, Nam được tập hợp, nhiều đoàn hát chuyên nghiệp ra đời, và các lớp truyền thụ nghề được mở rộng. Hàng loạt nhà nghiên cứu và nghệ sĩ đã tiếp nối, không ngừng kế thừa và sáng tạo, làm giàu thêm vốn quý của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Nhờ vậy, suốt TK XX, tuồng đã trở thành một trong những loại hình sân khấu chủ yếu, được đông đảo công chúng yêu thích và đón nhận nồng nhiệt.

Thế nhưng, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, tuồng lại đứng trước thử thách lớn khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng. Từ những năm cuối TK XX cho đến nay, tuồng đang dần mất đi vị thế vốn có trong lòng khán giả, đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực trầm trọng và đứng trước nguy cơ mai một nếu không có những giải pháp kịp thời.

Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy yếu của nghệ thuật tuồng hiện nay có thể được phân tích từ các yếu tố chủ quan sau:

Thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực sáng tạo

Việc tìm kiếm những đạo diễn, biên kịch có khả năng sáng tạo ra các kịch bản hay, vừa giữ được hồn cốt tuồng truyền thống, vừa mang hơi thở thời đại, đang trở nên vô cùng khó khăn, ví như “mò kim đáy bể”. Số lượng nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sáng tạo cho tuồng không nhiều. Hơn nữa, mức thù lao dành cho đội ngũ này thường thấp, không tương xứng với công sức, chất xám và tâm huyết họ bỏ ra. Điều này làm giảm đi đáng kể động lực sáng tạo, khiến nhiều tài năng không còn mặn mà gắn bó và cống hiến cho nghệ thuật tuồng.

Tình trạng thiếu hụt nguồn diễn viên và nhạc công trẻ đang ở mức báo động. Kể từ khóa tốt nghiệp 2014-2018, tính đến thời điểm hiện tại là năm 2025, ngành Tuồng vẫn chưa tuyển sinh được khóa nào mới. Theo quy định của Luật Giáo dục, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh không còn được phép tuyển sinh và đào tạo hệ trung cấp. Trong khi đó, nghệ thuật tuồng với những đặc thù riêng biệt, hiện vẫn chỉ có chương trình đào tạo cao nhất ở cấp Trung cấp, và chưa có giáo trình hoàn chỉnh cho hệ Đại học. Điều này tạo ra một khoảng trống lớn, đe dọa nghiêm trọng đến việc bổ sung lực lượng kế cận và sự phát triển bền vững của tuồng trong tương lai.

Hạn chế trong quy trình đào tạo và chính sách đãi ngộ

Các nghệ sĩ trẻ được đào tạo hệ trung cấp thường mất 3-4 năm, bắt đầu từ khi vừa tốt nghiệp THCS. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, các em phải học song song cả chuyên môn và văn hóa. Kết quả là, thời gian dành cho việc học chuyên môn tại trường chưa đủ sâu để các bạn trẻ có thể “ngấm nghề” và trình diễn tốt ngay khi tốt nghiệp. Khi về làm việc tại các nhà hát, các nghệ sĩ trẻ vẫn phải tiếp tục được các nghệ sĩ có kinh nghiệm lâu năm truyền nghề thêm một thời gian dài nữa mới thể hiện được các vai diễn tuồng truyền thống một cách mẫu mực.

Trong giai đoạn rèn luyện này, mức lương và bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn của các bạn trẻ thường rất thấp. Việc yêu cầu các bạn trẻ duy trì đam mê và bám trụ với nghề trong khi đối mặt với đồng lương ít ỏi như vậy là một thách thức vô cùng lớn. Điều này đòi hỏi những nghệ sĩ trẻ phải có một tình yêu nghề và sự tâm huyết phi thường để có thể ở lại nhà hát, góp phần gìn giữ và phát triển nghệ thuật tuồng truyền thống.

5. Nỗ lực hồi sinh và những tín hiệu tích cực từ Nhà hát Tuồng Việt Nam

Vượt lên những khó khăn và tận dụng những thuận lợi, trong thời gian qua, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã có những nỗ lực đáng ghi nhận, không ngừng tìm tòi và đổi mới phương pháp để đưa nghệ thuật tuồng truyền thống đến gần hơn với khán giả. Công tác truyền thông và quảng bá về tuồng đã được đẩy mạnh rõ rệt, lan tỏa giá trị của loại hình nghệ thuật này.

Đặc biệt, Nhà hát đã chú trọng tiếp cận thế hệ trẻ một cách bài bản và có hệ thống. Các yếu tố đặc trưng của tuồng như nghệ thuật biểu diễn, mô hình nhân vật, kỹ thuật hóa trang và vũ đạo đã được giới thiệu tại nhiều trường học. Nhờ đó, các bạn trẻ đã dần quan tâm hơn, thậm chí chủ động mua vé đến rạp để thưởng thức các buổi biểu diễn tuồng. Nhiều sinh viên, sau khi tốt nghiệp các khóa học khác, đã chọn nghệ thuật tuồng làm đề tài bảo vệ luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, minh chứng cho sức hút nghiên cứu của loại hình này.

Nhà hát Tuồng Việt Nam cũng đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, cá nhân để tạo ra nhiều chương trình biểu diễn và sự kiện độc đáo, thu hút sự quan tâm của công chúng. Các đêm diễn tại Rạp Hồng Hà với những chương trình như Dấu thiêng Hà Nội, Hồn Tuồng, Ngọn đuốc soi đường… là những buổi biểu diễn gần như luôn kín rạp, cho thấy sự đón nhận nồng nhiệt từ khán giả. Talkshow Tuồng và GenZ - Khi hồn Việt lên tiếng tại Trường Đại học Đại Nam là một cầu nối sáng tạo, giúp tinh hoa nghệ thuật tuồng truyền thống giao thoa với tư duy hiện đại của thế hệ GenZ. Chương trình đã tạo cơ hội để các bạn trẻ tự tin kể câu chuyện văn hóa Việt Nam nói chung và tuồng nói riêng theo cách của mình. Tại đây, những trích đoạn tuồng mẫu mực và hệ thống nhân vật được giới thiệu một cách dễ hiểu. Đặc biệt, các nghệ sĩ còn trực tiếp giao lưu, trò chuyện, giới thiệu về nghề và giải thích ý nghĩa các vai diễn, giúp khán giả trẻ dễ dàng nắm bắt hơn. Workshop Chụp ảnh Tuồng của Sony tại Rạp Hồng Hà đã quy tụ hơn 100 nhiếp ảnh gia, tạo nên một không gian độc đáo nơi nghệ thuật nhiếp ảnh thăng hoa cùng các nghệ sĩ tuồng. Những đường nét vẽ tinh xảo, màu sắc hóa trang cầu kỳ trên khuôn mặt, phục trang lộng lẫy cùng lối diễn xuất và vũ đạo đẹp mắt của tuồng đã được các nhiếp ảnh gia ghi lại. Đây là một kênh hiệu quả để quảng bá nghệ thuật tuồng truyền thống đến đông đảo công chúng trong nước và quốc tế.

Chương trình tour đêm Tiếng Chuông Trấn Vũ tại đền Quán Thánh: ra mắt vào tháng 5-2025 (và chính thức đón khách vào tháng 8-2025), hứa hẹn mang đến trải nghiệm hấp dẫn và linh thiêng. Nghệ thuật tuồng được lồng ghép thông qua màn sân khấu hóa về vị thần Huyền Thiên Trấn Vũ, với những câu hát, điệu bộ và vũ đạo sống động kể lại câu chuyện lịch sử linh thiêng. Du khách không chỉ được thưởng thức nghệ thuật mà còn được trải nghiệm những điều mới mẻ qua phần giới thiệu chi tiết về các nét văn hóa và giá trị lịch sử của Việt Nam. Các nghệ sĩ sẽ biểu diễn trong một không gian sáng tạo, huyền ảo, hòa quyện giữa nét nhạc dân gian, hiện đại cùng màn trình diễn thời trang áo cổ phục thời phong kiến. Đây là sản phẩm du lịch đêm thứ 5 của Hà Nội, sau các tour đêm tại Nhà tù Hỏa Lò, Giải mã Hoàng Thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Bảo tàng Văn học, mở ra hướng đi đầy tiềm năng cho tuồng trong việc kết hợp với du lịch văn hóa.

Mới đây nhất, vào ngày 18-6-2025, tại Trường Đại học FPT Hà Nội đã diễn ra một sự kiện talkshow và biểu diễn nghệ thuật đặc biệt Lời Tuồng - Tiếng Trẻ, được tổ chức nhằm kết nối nghệ thuật tuồng truyền thống với thế hệ trẻ Gen Z. Chương trình đưa khán giả qua ba chặng chính: trình diễn đoạn trích tuồng kinh điển Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, một buổi talkshow thảo luận về cách truyền thông trong thời đại số để đưa nghệ thuật truyền thống đến gần hơn với giới trẻ, và một workshop Chạm Tuồng mang tính tương tác. Sự kiện không chỉ mang đến những trải nghiệm nghệ thuật độc đáo mà còn là cơ hội để khán giả khám phá bản thân, tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc.

Những hoạt động này cho thấy sự năng động và khả năng thích nghi của Nhà hát Tuồng Việt Nam. Dù vẫn còn nhiều thách thức về nhân lực và chế độ đặc thù cho nghệ sĩ, tập thể cán bộ và nghệ sĩ tuồng đã nỗ lực không ngừng, từng bước đưa hình ảnh tuồng đến gần hơn, thu hút đông đảo khán giả, góp phần quan trọng vào công cuộc gìn giữ và phát triển loại hình nghệ thuật quý báu này.

6. Đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống trong thời kỳ hội nhập

Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho văn học, nghệ thuật Việt Nam nói chung và sân khấu nghệ thuật truyền thống nói riêng trong bối cảnh hội nhập, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất các giải pháp chiến lược sau:

Đào tạo, tập huấn chuyên sâu và giao lưu quốc tế

Sau khi quyết định sáp nhập các loại hình nghệ thuật được ban hành, cụ thể là sáp nhập ba nhà hát tuồng, chèo, cải lương, cần có chính sách rõ ràng để giải quyết chế độ cho một số nghệ sĩ được về hưu trước tuổi một cách hợp lý. Đối với các nghệ sĩ còn lại, cần tổ chức các chương trình tập huấn chuyên môn hằng năm về hát, múa, diễn, hóa trang của loại hình nghệ thuật mà họ đang theo đuổi. Đặc biệt quan trọng là phải tạo điều kiện để nghệ sĩ tham gia các chương trình tập huấn giao lưu với các loại hình nghệ thuật truyền thống của các nước bạn, như Kinh kịch của Trung Quốc, kịch Noh của Nhật Bản hay kịch mặt nạ của Pháp. Việc học hỏi, cọ xát với tinh hoa nghệ thuật thế giới sẽ giúp nghệ sĩ tuồng mở rộng tầm nhìn, tiếp thu những phương pháp dàn dựng, biểu diễn mới mẻ mà vẫn giữ vững bản sắc riêng.

Nâng cao vị thế trong các nhiệm vụ chính trị quốc gia

Các chương trình biểu diễn nghệ thuật đại diện cho nền văn hóa truyền thống Việt Nam cần được ưu tiên và có vị thế xứng đáng trong các nhiệm vụ chính trị lớn của quốc gia. Trong các kỳ cuộc lớn về giao lưu văn hóa, hay các buổi biểu diễn phục vụ các cấp lãnh đạo trong nước và quốc tế, cần có sự hiện diện của các nghệ sĩ sân khấu truyền thống. Họ nên được trình diễn một trích đoạn tiêu biểu hoặc các mô hình nhân vật đặc trưng theo loại hình nghệ thuật của mình. Điều này không chỉ là sự tôn vinh mà còn là cơ hội vàng để quảng bá hình ảnh, giá trị của tuồng đến đông đảo công chúng trong nước và bạn bè quốc tế, khẳng định bản sắc văn hóa Việt.

Xây dựng chế độ đãi ngộ đặc thù và tạo động lực sáng tạo

Cần có một chế độ bồi dưỡng đặc thù dành cho các nghệ sĩ kịch hát truyền thống, phản ánh đúng tính chất lao động và sự cống hiến của họ. Mức thù lao cho các tác giả, đạo diễn và những người làm công tác quản lý, sáng tạo cần được nâng cao, tương xứng với chất xám và công sức họ bỏ ra. Chính sách này sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy niềm yêu nghề, khuyến khích sự gắn bó, gìn giữ, sáng tạo và phát triển nghề. Việc đảm bảo chế độ đãi ngộ công bằng sẽ giúp giữ chân những tài năng hiện có và thu hút những người trẻ đến với nghề. Qua đó, nghệ thuật truyền thống - vốn là kết tinh văn hóa dân tộc qua các thời kỳ lịch sử đấu tranh và gìn giữ đất nước - sẽ tiếp tục là thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.

__________________________

1. GS, TS, NSND Đình Quang, Về đặc trưng và hướng phát triển của Tuồng Chèo truyền thống, Nxb Sân khấu, 2004, tr.181-182.

2. Giáo trình đào tạo diễn viên bậc trung cấp Nghệ thuật hát Tuồng, Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Bình Định, 1995, tr.10.

3. Mịch Quang, Đặc trưng nghệ thuật Tuồng, Nxb Sân khấu, 1995, tr.134.

----------------------------

Tham luận tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025) do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6- 2025.

Ths, NSƯT LỘC HUYỀN

Nhà hát Tuồng Việt Nam

;