Trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc luôn là dấu mốc quan trọng, định hình đường lối, chiến lược phát triển đất nước. Trong đó, vấn đề văn hóa và con người được Đảng ta xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Từ sau Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đến các Văn kiện Đại hội XI, XII, XIII, tư duy lý luận về văn hóa không ngừng được bổ sung, phát triển.

Thuỷ đình Tràng An ngày lễ lễ hội - Ảnh: Ninh Mạnh Thắng
Đại hội XIV diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc: xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng, song song với những thách thức mới về an ninh phi truyền thống, cạnh tranh sức mạnh mềm, khủng hoảng sinh thái, sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số. Trong bối cảnh đó, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã đưa ra nhiều quan điểm, định hướng mới về phát triển văn hóa và con người, thể hiện bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng. Những điểm mới này vừa kế thừa giá trị truyền thống, vừa mang tính đột phá, phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới. Do vậy, việc nghiên cứu, phân tích và luận giải những vấn đề mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về phát triển văn hóa và con người không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao, góp phần cung cấp luận cứ cho việc hoạch định và triển khai chính sách văn hóa ở nước ta trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
1. Tổng quan quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa và con người qua các kỳ Đại hội gần đây của Đảng
Trong tiến trình phát triển của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) và Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tư duy lý luận của Đảng về văn hóa ngày càng được mở rộng, hệ thống và gắn bó chặt chẽ hơn với thực tiễn phát triển xã hội.
Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) diễn ra trong bối cảnh đất nước đã có 25 năm đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong Đại hội này, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011). Cương lĩnh khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” (1). Đồng thời, Cương lĩnh đã xác định phát triển toàn diện con người Việt Nam, coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” (2).
Những nội dung trọng tâm về lĩnh vực văn hóa và con người mà Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh là: khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững. Đề cao việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Nhấn mạnh đến bảo tồn di sản văn hóa dân tộc trong điều kiện hội nhập.
Đại hội XI đặt nền móng lý luận quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, coi văn hóa là yếu tố đồng hành cùng phát triển kinh tế, thay vì chỉ là lĩnh vực phụ trợ.
Đại hội XII (tháng 1-2016) diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế bước sang giai đoạn mới với việc Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (TPP, EVFTA) và sự bùng nổ của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Lần đầu tiên, Đảng nhấn mạnh một cách rõ ràng đến “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đảng ta đã nhấn mạnh đến giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; đề cao các giá trị đạo đức, lối sống, nhân văn, tinh thần trách nhiệm công dân; gắn kết phát triển văn hóa, xây dựng con người với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Điểm nổi bật ở đây là tư duy văn hóa và con người gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chú ý nhiều hơn đến các vấn đề xã hội mới như tệ nạn, suy thoái đạo đức, mặt trái của kinh tế thị trường.
Đại hội XII tạo bước chuyển từ việc nhấn mạnh “nền tảng tinh thần” (Đại hội XI) sang “trung tâm phát triển con người” - coi con người là vừa mục tiêu, vừa động lực then chốt của sự nghiệp xây dựng CNXH.
Đại hội XIII (tháng 1-2021) diễn ra trong bối cảnh đặc biệt: đất nước vừa trải qua 35 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, đồng thời chịu tác động của đại dịch COVID-19, toàn cầu hóa đa chiều và chuyển đổi số. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh quan điểm chiến lược là “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”.
Đại hội XIII nhấn mạnh: xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với việc phát huy giá trị quốc gia - dân tộc và sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam. Đặt mục tiêu phát triển con người và văn hóa trong mối quan hệ chặt chẽ với mục tiêu phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đây là lần đầu tiên xuất hiện khái niệm “khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc” - gắn chặt phát triển con người với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh định hướng phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh mà Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 khóa XI đã nêu ra; chú trọng ứng phó với thách thức mới: biến đổi khí hậu, già hóa dân số, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
Đại hội XIII tạo bước ngoặt quan trọng: đưa văn hóa và con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển đất nước. Đây là sự phát triển tư duy lý luận, gắn văn hóa và con người với tầm nhìn phát triển quốc gia đến 2030, tầm nhìn 2045.
Qua 3 kỳ Đại hội XI, XII, XIII, có thể thấy sự phát triển nhận thức và tư duy của Đảng về văn hóa và con người theo hướng: Từ “nền tảng tinh thần của xã hội” (Đại hội XI), “phát triển con người toàn diện” (Đại hội XII) đến “văn hóa và con người là trung tâm của phát triển, khơi dậy khát vọng phồn vinh, hạnh phúc” (Đại hội XIII). Văn hóa ngày càng được nhìn nhận không chỉ là nền tảng mà còn là nguồn lực nội sinh, sức mạnh mềm của quốc gia. Con người được đặt ở trung tâm, vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa là mục tiêu của mọi chính sách phát triển. Văn hóa và con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đồng thời, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần, đảm bảo an ninh quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Đây là sự chuyển biến trong tư duy lý luận về phát triển văn hóa, con người của Đảng; từ coi trọng “bảo tồn - phát huy” sang coi trọng “sáng tạo - hội nhập”, đặc biệt nhấn mạnh đến công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư duy về phát triển văn hóa, con người.
Tổng quan quan điểm của Đảng về văn hóa và con người qua các kỳ Đại hội XI, XII, XIII cho thấy, một tiến trình phát triển tư duy mang tính kế thừa và đổi mới: từ chỗ nhấn mạnh vai trò nền tảng, đến việc coi trọng phát triển toàn diện con người, rồi khẳng định văn hóa - con người là trung tâm và động lực của phát triển đất nước. Đây chính là tiền đề quan trọng để nhận diện những điểm mới, sáng tạo, có tính đột phá trong Văn kiện Đại hội XIV.
2. Những nội dung mới trong Dự thảo Báo cáo Chính trị về lĩnh vực văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Bước vào giai đoạn mới của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh giá trị toàn cầu ngày càng mạnh mẽ, việc Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng (2025) dành riêng một phần V với tiêu đề Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam, thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc coi văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần và là hệ điều tiết phát triển bền vững quốc gia.
Đặc biệt, mục V Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV, đã khẳng định: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”.
Đây là một bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng, khi văn hóa được đặt trong mối quan hệ biện chứng với hệ giá trị, con người và phát triển đất nước. Bốn tầng hệ giá trị được xác lập không chỉ như những định hướng đạo đức - xã hội, mà còn là khung khái niệm nền tảng để hoạch định chính sách phát triển văn hóa, giáo dục, kinh tế và chính trị trong thời kỳ mới.
Văn hóa được đề cập trong Dự thảo không còn chỉ là lĩnh vực riêng biệt, mà là yếu tố kết nối, dẫn dắt và định hướng cho mọi hoạt động của đời sống xã hội - từ giáo dục, truyền thông, nghệ thuật, di sản, đến chính trị và kinh tế. Đồng thời, con người được đặt ở vị trí trung tâm, là chủ thể sáng tạo và thụ hưởng văn hóa, là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của quốc gia.
Từ quan điểm đó, bài viết tập trung làm rõ một số điểm mới về lý luận và thực tiễn trong phần Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam của Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV.
Thứ nhất, quan điểm chỉ đạo chung về phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Phần Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam trong Dự thảo thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về vị trí, vai trò và phương thức phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Từ cách tiếp cận coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đến xác lập nó là nguồn lực nội sinh, động lực và hệ điều tiết của phát triển đất nước, Đảng đã nâng văn hóa lên vị thế trung tâm trong chiến lược phát triển quốc gia bền vững.
Phần V Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng khẳng định rõ: “Phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa và tinh thần cống hiến của con người Việt Nam, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh, động lực và hệ điều tiết phát triển đất nước”.
Đây là điểm mới căn bản về nhận thức lý luận. Trước đây, trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Đảng khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. Đến Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014), khái niệm “phát triển văn hóa và con người” được mở rộng, nhấn mạnh mối quan hệ giữa văn hóa, con người và phát triển bền vững và đến Dự thảo Đại hội XIV, văn hóa đã được tiếp cận theo hướng năng động hơn, không chỉ là nền tảng mà còn là hệ điều tiết và cơ chế vận hành mềm của phát triển quốc gia. Sự bổ sung cụm từ “hệ điều tiết” hàm ý rằng, văn hóa đóng vai trò định hướng, chi phối, điều hòa hành vi xã hội và sự phát triển kinh tế - chính trị theo những giá trị, chuẩn mực mang tính dân tộc và nhân văn.
Đặc biệt, phần V Dự thảo lần đầu tiên đặt văn hóa và con người trong mối quan hệ thống nhất, toàn diện, gắn với 4 tầng hệ giá trị nền tảng hệ giá trị và chuẩn mực: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”.
Cấu trúc tư tưởng này thể hiện tầm nhìn mới của Đảng trong việc xây dựng “kiến trúc giá trị” của văn hóa Việt Nam thời kỳ hiện đại. Nếu như trước đây, các văn kiện chủ yếu nói về “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa” hoặc “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, thì lần này, Đảng đã xác lập hệ giá trị cụ thể làm nền tảng phát triển toàn diện, từ phạm vi quốc gia đến gia đình và cá nhân. Điều này không chỉ giúp tạo sự đồng bộ trong chính sách văn hóa - xã hội, mà còn giúp hình thành một khung lý luận thống nhất để đánh giá, định hướng và điều tiết hành vi văn hóa trong đời sống hiện đại.
Về phương diện thực tiễn, sự khẳng định văn hóa là “nguồn lực nội sinh” cũng mang ý nghĩa sâu sắc trong bối cảnh đất nước đang hướng tới phát triển nhanh và bền vững. Nguồn lực văn hóa, con người, bao gồm tri thức, bản lĩnh, đạo đức, sáng tạo và tinh thần dân tộc được coi là cội nguồn sức mạnh mềm của quốc gia, có thể chuyển hóa thành động lực phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và chính trị. Đây là một bước chuyển căn bản từ tư duy “đầu tư cho văn hóa là đầu tư xã hội” sang tư duy “đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Một điểm mới khác là Dự thảo đặt trọng tâm vào việc “phát huy tinh thần cống hiến của con người Việt Nam”, coi đây là giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. “Tinh thần cống hiến” cùng với “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” được xem như một biểu hiện sinh động của chủ nghĩa yêu nước hiện đại, mang sắc thái thời đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và gắn văn hóa tinh thần với hành động phát triển.
Từ đó, có thể nhận định rằng: quan điểm chỉ đạo chung của Dự thảo không chỉ tiếp nối truyền thống tư tưởng văn hóa của Đảng, mà còn đổi mới căn bản ở tầm triết lý phát triển: chuyển từ “xây dựng” sang “phát huy”, từ “văn hóa là nền tảng” sang “văn hóa là hệ điều tiết”, từ “phát triển con người mới” sang “phát triển toàn diện con người Việt Nam trong hệ giá trị thời đại mới”.
Thứ hai, phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa. Trên nền tảng quan điểm chỉ đạo đó, Dự thảo đã xác định nhiều nội dung phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, phản ánh tư duy toàn diện và liên ngành của Đảng về phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Những nội dung này vừa thể hiện sự kế thừa, vừa có những điểm mới rõ nét về thực tiễn và phương thức phát triển.
Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn minh
Dự thảo nhấn mạnh: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn với xây dựng, hoàn thiện con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đề cao, khuyến khích vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa”.
So với các văn kiện trước, đây là cách tiếp cận tích hợp và hiện đại hơn, vì coi môi trường văn hóa không chỉ là không gian sinh hoạt tinh thần, mà còn là hệ sinh thái giá trị, nơi các chuẩn mực đạo đức, hành vi, lối sống và các quan hệ xã hội được định hình và lan tỏa. Môi trường văn hóa không chỉ tồn tại trong cộng đồng dân cư, mà còn trong gia đình, nhà trường, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và không gian mạng - những thiết chế văn hóa mới của thời đại số.
Dự thảo đặc biệt chú trọng đến việc đề cao vai trò của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa, coi đây là “lực lượng nòng cốt trong sáng tạo, gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc”. So với Nghị quyết 33 (2014), điểm mới là đưa doanh nhân và người làm văn hóa vào cùng một chỉnh thể sáng tạo giá trị văn hóa, từ đó mở rộng khái niệm “chủ thể văn hóa” sang lĩnh vực kinh tế và sáng tạo xã hội.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
Dự thảo tiếp tục khẳng định: “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa, gắn với phát triển kinh tế di sản”.
Điểm mới là sự kết hợp giữa bảo tồn và sáng tạo, coi di sản không chỉ là “tài sản quá khứ”, mà là nguồn lực phát triển tương lai. Điều này thể hiện xu hướng tiếp cận “văn hóa như tài sản sáng tạo”, phù hợp với quan điểm UNESCO về “di sản sống” và “kinh tế sáng tạo”. Lần đầu tiên, khái niệm kinh tế di sản được khẳng định trong văn kiện của Đảng, nhấn mạnh cách tiếp cận mới, coi di sản là một nguồn lực phát triển và nâng lên tầm mức thành kinh tế di sản.
Phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí và truyền thông hiện đại
Dự thảo xác định: “Xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật xứng tầm với lịch sử văn hóa dân tộc và tầm vóc công cuộc đổi mới”.
So với các kỳ Đại hội trước, đây là lần đầu tiên cụm từ “xứng tầm với tầm vóc công cuộc đổi mới” được sử dụng. Điều đó thể hiện yêu cầu mới đối với vai trò của văn học - nghệ thuật: không chỉ phản ánh đời sống mà còn định hình và nâng cao đời sống tinh thần, nhân cách con người Việt Nam.
Điểm mới ở đây nằm ở tư duy “tầm vóc lịch sử” và “tầm vóc đổi mới”, thể hiện mong muốn của Đảng về việc nâng cao chất lượng sáng tạo nghệ thuật gắn với hiện thực phát triển đất nước. Văn hóa nghệ thuật không chỉ là “tấm gương phản chiếu xã hội”, mà phải là nguồn năng lượng khai mở khát vọng, truyền cảm hứng đổi mới và cống hiến.
Đồng thời, việc nêu rõ nhiệm vụ “ưu tiên các cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật; có chính sách hỗ trợ các bộ môn nghệ thuật truyền thống” cho thấy sự chú trọng của Đảng trong việc phát triển nhân lực văn hóa chất lượng cao, đồng thời bảo tồn và hiện đại hóa các giá trị truyền thống.
Điều này phù hợp với xu hướng quốc tế, khi nhiều quốc gia chuyển từ “bảo vệ di sản” sang “tái sinh di sản”, từ “hỗ trợ nghệ thuật” sang “đầu tư cho sáng tạo”, coi nghệ thuật là nguồn lực phát triển xã hội sáng tạo và kinh tế tri thức.
Về phát triển báo chí, xuất bản, truyền thông - hướng tới môi trường thông tin nhân văn và hiện đại, Dự thảo nêu rõ: “Xây dựng nền báo chí, xuất bản, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại; tăng cường quản lý các loại hình truyền thông, thông tin trên nền tảng số”.
Điểm mới ở đây là nhấn mạnh tính “chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại” - 3 tiêu chí đồng thời của nền báo chí cách mạng trong thời kỳ số hóa.
Nếu như trước đây báo chí được xem là công cụ tuyên truyền, thì nay Đảng định hướng nó trở thành một thiết chế văn hóa - thông tin hiện đại, có trách nhiệm xã hội, nhân văn và sáng tạo.
Đặc biệt, cụm từ “quản lý các loại hình truyền thông, thông tin trên nền tảng số” là sự phản ánh trực tiếp thực tiễn mới: không gian mạng đã trở thành một “không gian văn hóa” thứ hai, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức, hành vi và lối sống xã hội. Do đó, nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong môi trường số vừa là một yêu cầu cấp bách, vừa là thách thức chiến lược.
Đây cũng là sự cụ thể hóa chủ trương “chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa” mà văn kiện nêu rõ ở phần sau: “Đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng và quản lý tốt môi trường văn hóa, phát triển và quản lý tốt thị trường, dịch vụ văn hóa số”.
Tư duy này phản ánh bước tiến rõ rệt trong quản trị văn hóa của Đảng: từ quản lý theo mô hình hành chính - tuyên truyền sang quản trị văn hóa trong môi trường số, dựa trên đổi mới công nghệ, kỹ năng số và đạo đức truyền thông.
Lãnh đạo, quản lý và phát huy vai trò chủ thể văn hóa
Một trong những điểm nhấn đặc biệt trong Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng là sự đổi mới trong quan điểm lãnh đạo và quản lý văn hóa, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng. Dự thảo xác định rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về văn hóa; đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng và quản lý tốt môi trường văn hóa, phát triển và quản lý tốt thị trường, dịch vụ văn hóa số”.
Trước hết, sự đổi mới được thể hiện ở nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa. Nếu trong các văn kiện trước đây, trọng tâm là “tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên lĩnh vực văn hóa”, thì trong Dự thảo Đại hội XIV, khái niệm “đổi mới phương thức lãnh đạo” nhấn mạnh sự thích ứng với bối cảnh mới, trong đó văn hóa không còn chỉ được quản lý theo mô hình hành chính - bao cấp, mà được định hướng theo cơ chế quản trị phát triển văn hóa. Quản trị ở đây bao hàm việc tạo dựng thể chế, môi trường và động lực để các chủ thể văn hóa; cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, phát huy vai trò sáng tạo và tự chủ của mình trong phát triển văn hóa.
Song song với đó, Dự thảo đặt trọng tâm vào “xây dựng và quản lý tốt môi trường văn hóa, thị trường và dịch vụ văn hóa số”. Đây là một hướng tiếp cận mới, lần đầu tiên văn kiện Đại hội Đảng chính thức thừa nhận thị trường văn hóa và không gian số là bộ phận cấu thành của đời sống văn hóa hiện đại. Nếu trong thời kỳ trước, khái niệm “thị trường văn hóa” thường được hiểu như lĩnh vực nhạy cảm, cần quản lý chặt chẽ để tránh thương mại hóa, thì nay, nó được coi là một động lực phát triển công nghiệp văn hóa, gắn với quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Điểm mới nữa là việc khẳng định vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa. Dự thảo viết: “Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo, quản lý về văn hóa và phát triển con người. Chăm lo đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa, nhất là văn hóa cơ sở. Ưu tiên các cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật, có chính sách hỗ trợ các bộ môn nghệ thuật truyền thống”. Ở đây, việc nhấn mạnh “văn hóa cơ sở” cho thấy sự dịch chuyển trong trọng tâm quản lý nhà nước: từ “chỉ đạo cấp trung ương” sang “trao quyền, hỗ trợ cơ sở và cộng đồng” - tức chuyển từ mô hình quản lý mệnh lệnh sang mô hình đồng kiến tạo văn hóa. Cách tiếp cận này tương thích với quan điểm phát triển bền vững của UNESCO, coi cộng đồng là trung tâm của sáng tạo và bảo tồn văn hóa.
Hơn nữa, Dự thảo đã nêu yêu cầu “phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân”. So với các văn kiện trước, đây là bước tiến lớn về tư duy thể chế hóa kinh tế văn hóa. Đảng không chỉ khẳng định công nghiệp văn hóa là một ngành kinh tế mới, mà còn coi đó là kênh chuyển hóa các giá trị tinh thần thành giá trị vật chất, góp phần gia tăng sức mạnh mềm quốc gia và mở rộng không gian sáng tạo của con người Việt Nam. Đảng đã chuyển từ tư duy “quản lý văn hóa” sang “quản trị phát triển văn hóa”, nhấn mạnh hiệu lực của chính sách, năng lực của đội ngũ, tính tự chủ của chủ thể và vai trò điều tiết của thị trường. Đây là những bước chuyển căn bản về lý luận quản lý văn hóa trong thời kỳ công nghiệp sáng tạo và toàn cầu hóa.
3. Những nhiệm vụ cấp bách và định hướng thực thi
Dựa trên quan điểm và định hướng nêu trên, Dự thảo xác định một loạt nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nhằm hiện thực hóa chiến lược phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
Phát triển toàn diện con người Việt Nam
Dự thảo nhấn mạnh “Phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, kỹ năng sống và nghề nghiệp”. Đây là một bước cụ thể hóa quan trọng của khái niệm “chuẩn mực con người Việt Nam” trong bối cảnh hội nhập quốc tế. So với các văn kiện trước, điểm mới là mở rộng phạm vi phát triển con người sang năng lực sáng tạo, thẩm mỹ và kỹ năng nghề nghiệp, coi đây là tiêu chí cấu thành phẩm chất của công dân thời đại số.
Việc “xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa” không chỉ gắn với lý tưởng chính trị, mà còn hướng đến phát triển năng lực cá nhân trong môi trường kinh tế tri thức, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại.
Khơi dậy khát vọng phát triển và tinh thần cống hiến
Một nội dung nổi bật của Dự thảo là khẳng định giá trị tinh thần của con người Việt Nam như một nguồn lực tinh thần đặc biệt. “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Đây không chỉ là lời hiệu triệu, mà là một định hướng phát triển con người Việt Nam trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. “Khát vọng” được đặt bên cạnh “tinh thần cống hiến”, phản ánh chuyển biến từ động lực chính trị sang động lực văn hóa - nhân văn, khuyến khích mỗi cá nhân trở thành “chủ thể sáng tạo và kiến tạo tương lai”. Đây cũng là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, nhưng được cụ thể hóa bằng ngôn ngữ của thời đại mới.
Phát triển văn hóa chính trị, văn hóa kinh doanh và đạo đức doanh nhân
Lần đầu tiên, một văn kiện Đại hội Đảng đề cập cụ thể đến “phát triển văn hóa chính trị, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa khởi nghiệp sáng tạo và đạo đức doanh nhân”. Điều này thể hiện bước phát triển về chiều sâu của khái niệm “văn hóa”, vượt ra khỏi phạm vi nghệ thuật và tinh thần, mở rộng sang lĩnh vực chính trị và kinh tế.
Văn hóa chính trị ở đây được hiểu như trình độ, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hoạt động công vụ và lãnh đạo, còn văn hóa kinh doanh và đạo đức doanh nhân thể hiện trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc và nhân văn của giới doanh nghiệp. Việc đưa các loại hình “văn hóa chính trị”, “văn hóa kinh doanh” và “văn hóa khởi nghiệp” vào văn kiện Đại hội cho thấy Đảng đã mở rộng phạm vi ứng dụng của tư duy văn hóa trong điều hành phát triển đất nước. Văn hóa không chỉ là một lĩnh vực, mà là một cách thức phát triển - một hệ điều tiết các hành vi, chuẩn mực, giá trị trong toàn bộ đời sống xã hội.
Xây dựng văn hóa gia đình, nhà trường và xã hội - nền tảng nhân cách con người
Dự thảo nêu: “Xây dựng văn hóa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm bảo vệ thuần phong mỹ tục, tinh thần tương thân tương ái, nghĩa tình, đoàn kết, trọng đạo lý, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại”.
Ở đây, khái niệm “ba môi trường văn hóa cơ bản” - gia đình, nhà trường, xã hội - được tái khẳng định và cập nhật theo hướng mở rộng. Nếu trong các văn kiện trước, nội dung này thường gắn với giáo dục đạo đức, thì trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, nó được gắn với chức năng tái sản xuất văn hóa - nhân cách - lối sống.
Đặc biệt, cụm từ “kết hợp giữa truyền thống và hiện đại” phản ánh sâu sắc tư duy của về văn hóa đương đại: văn hóa Việt Nam không đứng ngoài toàn cầu hóa, nhưng cũng không hòa tan; ngược lại, hiện đại hóa phải được dẫn dắt bởi bản sắc dân tộc.
Gia đình - nhà trường - xã hội trở thành “tam giác giá trị” giúp định hình nhân cách con người Việt Nam trong TK XXI, nơi mà văn hóa truyền thống (thuần phong, mỹ tục) và văn hóa hiện đại (sáng tạo, hội nhập) cùng tồn tại, bổ sung và nâng đỡ nhau.
Tăng cường “sức đề kháng văn hóa” và bảo vệ chủ quyền văn hóa quốc gia
Dự thảo nêu rõ: “Tăng cường sức đề kháng của văn hóa, chống mọi sự xâm lăng về văn hóa; bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, hủ lậu, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục; đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng”. Đây là một điểm mới quan trọng phản ánh nhận thức sâu sắc của Đảng về an ninh văn hóa và chủ quyền văn hóa quốc gia trong thời kỳ hội nhập. “Sức đề kháng văn hóa” là khái niệm mới, gợi liên tưởng tới khả năng tự bảo vệ của hệ giá trị dân tộc trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa.
Điều này cũng cho thấy Đảng tiếp cận một cách chủ động hơn: vừa hội nhập, vừa tự cường, coi văn hóa là lá chắn mềm của quốc gia trong cạnh tranh và giao lưu quốc tế.
4. Về Dự thảo Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng
Dự thảo Chương trình hành động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là một bước tiến có ý nghĩa đột phá thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng biến các chủ trương, đường lối trong Văn kiện Dự thảo Đại hội XIV thành hiện thực thông qua chương trình hành động cụ thể, rõ ràng, minh bạch, phản ánh bước phát triển trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc triển khai thực hiện Văn kiện. Trên lĩnh vực văn hóa và con người, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa và con người. Cụ thể là: “Ban hành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, tích hợp sâu rộng vào chương trình giáo dục, các hoạt động truyền thông đại chúng và hoạt động văn hóa cơ sở. Xây dựng các chính sách đột phá, hỗ trợ phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, bảo tồn và phát huy di sản và khuyến khích mạnh mẽ sự sáng tạo trong nghệ thuật, thiết kế, sản xuất nội dung số”. Đồng thời, Dự thảo đã chọn 5 nhiệm vụ cơ bản để tập trung phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người. Đó là: 1) Hoàn thiện, ban hành và tổ chức thực hiện Hệ giá trị quốc gia; hệ giá trị văn hóa; hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam; 2) Thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa; 3) Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá cho phát triển các loại hình văn hóa, nghệ thuật dân tộc, gắn kết chặt chẽ với sự phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả của các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí; 4) Xây dựng, triển khai Đề án thúc đẩy các phong trào, hoạt động văn hóa cơ sở, lấy người dân làm chủ thể, trung tâm; 5) Xây dựng các công trình văn hóa, thể thao ngang tầm với khu vực và quốc tế, xứng đáng là biểu tượng của thời đại Hồ Chí Minh.
Việc xác định những nội dung trên đóng vai trò cụ thể hóa định hướng, định hình nội dung và phương thức tổ chức thực hiện, đảm bảo sự nhất quán và thống nhất với những quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển mạnh mẽ và toàn diện văn hóa và con người trong phần V của Dự thảo Văn kiện.
Từ những định hướng mới trong Dự thảo, có thể gợi mở một số hướng nghiên cứu và triển khai chính sách như sau:
Về lý luận: cần tiếp tục làm rõ cấu trúc, nội hàm và mối quan hệ tương tác giữa hệ giá trị quốc gia - hệ giá trị văn hóa - hệ giá trị gia đình - chuẩn mực con người Việt Nam, qua đó hình thành khung lý thuyết đồng bộ về giá trị học Việt Nam trong bối cảnh hiện đại. Cụ thể hóa hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị con người Việt Nam trong từng ngành, từng địa phương.
Về thực tiễn: nên ưu tiên nghiên cứu, xây dựng chỉ số phát triển văn hóa (Cultural Development Index) và chỉ số phát triển con người Việt Nam theo tiếp cận giá trị học, qua đó lượng hóa và đánh giá được hiệu quả của chính sách văn hóa trong đời sống xã hội.
Về quản lý và chính sách: cần thể chế hóa và bổ sung các nội dung đổi mới trong “Chiến lược quốc gia về phát triển văn hóa Việt Nam đến 2030”, đồng thời gắn với các chương trình hành động cụ thể về phát triển công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số văn hóa và phát triển con người Việt Nam hiện đại.
Về giáo dục và truyền thông: đẩy mạnh truyền thông giá trị, giáo dục văn hóa công dân, và khơi dậy “tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc” như Dự thảo đã nêu nhằm biến khát vọng dân tộc thành sức mạnh văn hóa lan tỏa trong toàn xã hội.
Đẩy mạnh ngoại giao văn hóa và quảng bá sức mạnh mềm Việt Nam trên trường quốc tế.
Có thể khẳng định, những điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về phát triển văn hóa và con người vừa mang ý nghĩa lý luận (bổ sung, phát triển nhận thức, nâng tầm tư duy của Đảng), vừa mang ý nghĩa thực tiễn (định hướng hành động, giải quyết vấn đề đặt ra của đất nước). Đây chính là cơ sở để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với khát vọng phồn vinh, hạnh phúc, phát triển bền vững và khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế.
Việc triển khai thành công các quan điểm mới này của Đảng về phát triển văn hóa và con người sẽ tạo động lực mới để chuyển hóa mạnh mẽ sức mạnh văn hóa và người hướng tới phát triển đất nước phồn vinh, văn minh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình phát triển của dân tộc (3).
______________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, Hà Nội, tr. 75-76, 76.
3. Tham luận tại Hội thảo “Những quan điểm mới của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức ngày 30-10-2025.
PGS, TS PHẠM DUY ĐỨC
Nguồn: Tạp chí VHNT số 624, tháng 11-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
