Xuyên suốt chiều dài lịch sử, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được tăng cường, củng cố, trở thành cội nguồn sức mạnh to lớn; tạo nên nét đặc sắc riêng của dân tộc Việt Nam trong dòng chảy chung của lịch sử văn minh nhân loại. Truyền thống ấy được Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội kế thừa, phát triển trên cơ sở củng cố nền tảng khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; xem đây là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở phải vận động, tập hợp rộng rãi với mọi lực lượng có thể đoàn kết được, phải đoàn kết toàn dân, không phân biệt đảng phái, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, tức là không bỏ sót một người nào vào mặt trận chung, thống nhất, nhằm tạo ra thế và lực vô địch để khắc phục mọi khó khăn, giành lấy thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Bởi vì, theo Người: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (1). Từ đó, Người khẳng định chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” (2).
Thấm nhuần những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, trải qua các thời kỳ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, Đảng ta luôn xác định đoàn kết toàn dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ hàng đầu cần quán triệt và thực thi hiệu quả trong các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở kế thừa và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, trải qua thực tiễn hơn 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã kiên trì phấn đấu, tận dụng được những thời cơ, vượt qua vô vàn khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; từng bước xác lập, khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đất nước ta cũng đang đứng trước những thách thức mới: Bên cạnh đó, nền kinh tế tuy có sự phát triển nhưng chưa thật vững chắc; đời sống văn hóa, xã hội còn tồn tại nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc; tình trạng phân hóa giàu, nghèo có xu hướng gia tăng; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả... các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn đang hằng ngày, hằng giờ gia tăng các hoạt động phá hoại thành quả cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Những thách thức trên đã và đang trực tiếp tác động đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là về tư tưởng, bản lĩnh, niềm tin của cán bộ và nhân dân.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, vấn đề tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu có tính tất yếu khách quan và cấp thiết. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã rút ra những bài học lớn của sự nghiệp cách mạng, trong đó xác định: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa TK XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (3). Điều này được biểu hiện trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân. Đây là đường lối chiến lược và tư tưởng nhất quán của Đảng xuyên suốt tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước. Mục tiêu chiến lược này nhằm tập hợp lực lượng toàn dân, tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân” (4). Đối tượng đoàn kết theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng là rất rộng rãi, gồm tất cả các tầng lớp nhân dân có chung mục tiêu, nguyện vọng vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Thứ hai, phương thức tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong đó, quan tâm xây dựng liên minh tự nhiên vững chắc giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây là lực lượng cơ bản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, cũng như trong sự nghiệp xây dựng, phát triển, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Điều này xuất phát từ lợi ích căn bản của giai cấp, tầng lớp nói trên cơ bản thống nhất với nhau và thống nhất với lợi ích chung của toàn dân tộc. Đại hội XIII của Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo nhằm bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, thực sự là hạt nhân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quan tâm xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp nông dân; thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự phát triển đội ngũ trí thức không ngừng lớn mạnh, có chất lượng cao.
Thứ ba, giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài. Đây vừa là quan điểm chỉ đạo, vừa là chủ trương và giải pháp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển” (5). Đồng thời, chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi, “nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước” (6). Trong quan hệ tôn giáo, Đảng nhấn mạnh phải: “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (7). Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng ta khẳng định đây là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải “Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (8).
Trong điều kiện mới của đất nước, đặc biệt là trước những biến đổi về cơ cấu xã hội - giai cấp của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, Đại hội XIII của Đảng đã xác định những vấn đề có tính nguyên tắc cần quan tâm giải quyết nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống:
Một là, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Đây là vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, bảo đảm cho quá trình tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tiến hành đúng hướng, mang lại hiệu quả cao, luôn gắn sát với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và điều hành của Nhà nước được biểu hiện rõ nét thông qua đường lối, chính sách, pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Theo đó, cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, là “ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Nhà nước cần thể chế hóa đường lối, quan điểm và các chủ trương của Đảng thành pháp luật và đảm bảo việc thực thi trên thực tế; nghiên cứu, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương xã hội trên tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các cấp, các ngành; chăm lo bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân; quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (9). Đồng thời, ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, cũng như những hành vi lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, coi trọng tuyên truyền, giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về gắn tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện nguyên tắc này, Đại hội XIII của Đảng xác định cùng với tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc (10). Theo đó, cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc cho mọi lực lượng trong xã hội. Trên cơ sở đó, tạo sự nhất trí, đồng lòng và sự đồng thuận trong cộng đồng; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Ba là, chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nguyên tắc này chỉ ra, quá trình xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp cần hướng vào phát huy vai trò, trách nhiệm là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống; tạo cơ sở, nền tảng để xây dựng sự đồng thuận trong xã hội; phát huy vai trò phản biện xã hội và sự giám sát của nhân dân đối với đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Cùng với xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc ở các cấp, vấn đề đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được Đại hội XIII của Đảng xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, sự đồng thuận giữa Nhà nước và nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác này cần được tiến hành với phương châm: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn” (11), đồng thời: gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bốn là, lấy yếu tố con người làm trung tâm của sự phát triển, thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Qua đó, tạo động lực khơi dậy, phát huy và nhân lên sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự tôn, tự hào dân tộc của mỗi cá nhân vào phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện mục tiêu phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; phát huy vai trò của giai cấp nông dân; xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nước; xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao; bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể xã hội; tăng cường đoàn kết các dân tộc, đoàn kết các tôn giáo, giữa người theo đạo và người không theo đạo; phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Từ thực tiễn tình hình phát triển kinh tế, xã hội, cần quan tâm ưu tiên giải quyết những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân, trọng tâm là xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù, ưu tiên phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với xu thế vận động, biến đổi mới trên thế giới, khu vực và trong nước; phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hợp pháp sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ, đường hướng hành đạo và đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, xử lý nghiêm những hành vi kỳ thị dân tộc; ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại âm mưu, hành động của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để lôi kéo, mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Gắn tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là kinh nghiệm quý báu, vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng đất nước. Kế thừa những thành tựu đạt được, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục làm sáng rõ, đưa vấn đề đặc biệt quan trọng này lên một tầm cao mới và ngày càng hoàn thiện; góp phần thiết thực chăm lo xây dựng, củng cố và nhân lên cội nguồn sức mạnh để thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng đất nước hùng cường, giàu mạnh.
____________________
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.453.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.119.
3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.112, 98, 50, 51, 171, 171, 96, 161, 180.
TS ĐOÀN NAM CHUNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 536, tháng 6-2023