• Nghệ thuật > Sân khấu biểu diễn

Xiếc Việt Nam - Tư duy đổi mới và cách tân nghệ thuật sau năm 1986

Sau khi đất nước giành độc lập năm 1945, nghệ thuật xiếc Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Năm 1956, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và cho phép thành lập đoàn xiếc quốc gia đầu tiên, sau này được đổi tên là Liên đoàn Xiếc Việt Nam cho đến nay. Ngày 16-1-1956 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật xiếc. Từ đó Liên Đoàn Xiếc Việt Nam như cánh chim đầu đàn của nghệ thuật xiếc Việt Nam. Với biết bao thế hệ nghệ sĩ xiếc tài năng, luôn gìn giữ và phát triển nghệ thuật xiếc truyền thống. Xiếc Việt Nam nổi bật với các thể loại tiết mục mang đậm văn hóa dân tộc, nghệ thuật huấn luyện và biểu diễn với các loài thú thường kết hợp với trang phục truyền thống và âm nhạc dân gian. Điều này tạo nên sự hấp dẫn riêng, thu hút cả khán giả trong nước và quốc tế.

Thăng bằng trong nghệ thuật xiếc

Tóm tắt: Thăng bằng là kỹ thuật cơ bản và thiết yếu trong nghệ thuật xiếc, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả và tính thẩm mỹ của tiết mục. Đây không chỉ là việc giữ ổn định cơ thể mà còn là khả năng kiểm soát trọng tâm, phản xạ nhanh và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hệ cơ quan. Kỹ thuật thăng bằng được phân loại thành nhiều dạng như thăng bằng tĩnh, thăng bằng động, thăng bằng phản ứng, thăng bằng chức năng và các hình thức đặc biệt như thăng bằng nhiều tầng hoặc khi di chuyển. Mỗi loại đòi hỏi kỹ năng và phương pháp luyện tập riêng biệt, yêu cầu người biểu diễn phải có thể lực, ý chí và khả năng kiểm soát cơ thể tốt. Làm chủ kỹ năng thăng bằng là nền tảng cốt lõi để nghệ sĩ xiếc phát triển sự nghiệp bền vững và góp phần gìn giữ, nâng cao giá trị của nghệ thuật xiếc.

Một số vấn đề và giải pháp về quản lý sân khấu kịch nói xã hội hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Trong mối tương quan và song song tồn tại với các loại hình nghệ thuật khác, kịch nói là một mắt xích quan trọng, góp phần tạo nên một nền văn nghệ đặc trưng, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh những thành tựu, kịch nói Việt Nam nói chung và kịch nói xã hội hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) nói riêng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Với bối cảnh phát triển của đất nước như hiện nay, vấn đề quản lý sân khấu kịch nói xã hội hóa cần được nghiên cứu, quan tâm và có chính sách thỏa đáng.

Nghiên cứu tuồng dưới góc nhìn của các học giả Trung Quốc

Tóm tắt: Nghệ thuật Tuồng luôn là đề tài hấp dẫn trong nghiên cứu văn hóa Việt Nam và cả văn hóa Á Đông do nội dung phong phú và nghệ thuật thể hiện cảm xúc độc đáo. Các học giả Trung Quốc đương đại đặc biệt quan tâm đến việc tìm ra những điểm tương đồng giữa Tuồng Việt Nam và hý khúc Trung Quốc về cốt truyện, nhân vật, trang phục và nghệ thuật biểu diễn, tạo nên sự giao thoa văn hóa đặc biệt. Họ đã nghiên cứu sâu về nguồn gốc, quá trình phát triển, đặc điểm và hình thức biểu diễn của Tuồng Việt Nam bằng phương pháp liên ngành. Những nghiên cứu này không chỉ giúp tăng cường hiểu biết về văn hóa Việt Nam, cung cấp góc nhìn mới cho nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Trung Quốc mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển đa nguyên của văn hóa và nghệ thuật xuyên biên giới.

Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam và nỗ lực đột phá trong xây dựng công nghiệp văn hóa - Bài 2: Đề xuất một số giải pháp phát triển nghệ thuật biểu diễn trong thời gian tới

Sự dũng cảm đổi mới trong cách thể hiện đã giúp nhiều chương trình nghệ thuật biểu diễn Việt Nam gần đây chạm tới trái tim công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Như PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhận định, chìa khóa thành công nằm ở “sự giao hòa khéo léo giữa bản sắc văn hóa và nhịp đập đương đại, giữa chiều sâu truyền thống và tinh thần đổi mới” (1). Khi nghệ thuật biểu diễn kết nối được với các xu hướng và giá trị đương đại mà vẫn giữ vững bản sắc cốt lõi, nó sẽ tạo được sức hút mạnh mẽ và bền vững đối với công chúng.

Công nghiệp sáng tạo và sự phát triển của nghệ thuật đương đại: Một số gợi mở cho các dự án nghệ thuật đương đại tại Việt Nam

Tóm tắt: Nghệ thuật đương đại không giới hạn ở hội họa hay điêu khắc mà bao gồm: nghệ thuật trình diễn, video art, nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật khái niệm, nghệ thuật kỹ thuật số, AI, NFT, nghệ thuật tương tác, nghệ thuật công cộng... trong những năm qua các không gian, triển lãm và dự án nghệ thuật đương đại đã có những đóng góp quan trọng trong phát triển công nghiệp sáng tạo, đồng thời góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giao lưu và hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, để phát triển bền vững, các không gian, dự án nghệ thuật đương đại cần tập trung vào các trụ cột chính: đổi mới, đa dạng hóa hình thức nghệ thuật và trải nghiệm, tận dụng công nghệ và nền tảng số; kết nối và trách nhiệm xã hội, kết nối chính sách; giáo dục nghệ thuật và phát triển khản giả; huy động nguồn lực.

Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam và nỗ lực đột phá trong xây dựng công nghiệp văn hóa - Bài 1: “Thổi hồn” truyền thống vào nghệ thuật biểu diễn đương đại

Sự thành công của một số chương trình nghệ thuật biểu diễn và MV ca nhạc gần đây khi khéo léo đưa chất liệu nghệ thuật dân gian, truyền thống vào nghệ thuật đương đại, đã mở ra những hướng đi đầy khích lệ trong việc xây dựng công nghiệp văn hóa và quảng bá văn hóa dân tộc ra quốc tế. Đồng thời, cũng đặt ra những vấn đề mới trong nhận thức cũng như yêu cầu đổi mới phương thức sáng tác, biểu diễn, quảng bá nghệ thuật.

Mối quan hệ và thách thức của nghệ thuật chèo quân đội trong xã hội đương đại

Tóm tắt: Bài viết chú trọng vào việc khám phá mối liên kết giữa nghệ thuật chèo quân đội và môi trường xã hội ngày nay. Theo đó, tập trung vào việc phân tích sự tương tác giữa nghệ thuật chèo quân đội và các yếu tố văn hóa, giáo dục, truyền thống trong xã hội đương đại. Bằng cách tiếp cận từ góc độ nghệ thuật và xã hội học, bài viết nhằm hiểu rõ hơn về vai trò và ý nghĩa của nghệ thuật chèo quân đội trong lòng cộng đồng ngày nay. Nghiên cứu đi sâu vào các thách thức mà nghệ thuật chèo quân đội đang phải đối mặt trong bối cảnh xã hội đương đại. Tác giả không chỉ mô tả các vấn đề, mà còn đề xuất giải pháp để bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo quân đội, giúp nó phản ánh đúng bức tranh đa dạng, phong phú của xã hội đương đại và cung cấp cái nhìn sâu rộng về cách mà nghệ thuật và văn hóa tương tác thích nghi trong môi trường xã hội hiện nay.

Sự vận động thẩm mỹ nghệ thuật trong bối cảnh đương đại Việt

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu sự vận động thẩm mỹ nghệ thuật trên nhiều phương diện trong bối cảnh đương đại đa chiều ở Việt Nam. Trong dòng chảy biến đổi của bối cảnh văn hóa - xã hội và sự tương tác giữa các thế hệ thì những giá trị tinh thần sâu sắc và bản sắc cá nhân vẫn luôn là điểm cốt lõi. Đây là bài tham luận tại Hội thảo “Tài năng trẻ - Nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa nghệ thuật” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 11-2024.

Một số vấn đề về phát hiện, bồi dưỡng tài năng lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trong xu thế hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tác giả đã phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp cho công tác phát hiện và bồi dưỡng tài năng nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay. Đây là tham luận tại Hội thảo “Tài năng trẻ - Nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa nghệ thuật” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 11-2024.

Áp dụng văn hóa học và sân khấu học trong tiếp cận nghệ thuật đạo diễn kịch nói Thành phố Hồ Chí Minh từ 2000-2020

Tóm tắt: Lịch sử kịch nói TP.HCM luôn phát triển mạnh và góp phần quan trọng vào sự hưng thịnh của sân khấu kịch nói Việt Nam. Một trong những nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng và sự phát triển của sân khấu kịch nói TP.HCM là vai trò của nghệ thuật đạo diễn. Công tác đạo diễn kịch nói TP.HCM tồn tại đã hơn nửa thế kỉ, gắn với tên tuổi của nhiều thế hệ nghệ sĩ, tạo ra nhiều vở diễn có chất lượng cao, nhất là trong giai đoạn 2000-2020. Bài viết áp dụng hệ thống lý thuyết căn bản về văn hóa và sân khấu học để nghiên cứu về việc thực hành đạo diễn trong bối cảnh văn hóa xã hội của ngành sân khấu hiện nay

Họa sĩ Dân Quốc - Người thiết tạo những không gian “sắc sắc không không” cho các vở chèo

Tóm tắt: “Sắc sắc không không” nghĩa là có mà không, không mà có, là một trong những triết lý căn bản của giáo lý đạo Phật. Triết lý này tưởng chừng mơ hồ, nhưng ở góc nhìn, tầm nhìn và cách nhìn khoa học biện chứng, thì hoàn toàn đúng với ý nghĩa vật chất của nó. Họa sĩ thiết kế mỹ thuật sân khấu chèo Nguyễn Dân Quốc đã lấy triết lý này làm phương châm cho sáng tạo của mình. Bài viết đã đưa ra nhiều dẫn chứng để cho thấy họa sĩ Nguyễn Dân Quốc đã vận dụng các nguyên tắc thuộc phương pháp thể loại chèo vào sáng tác thiết kế mỹ thuật trong hơn 120 vở chèo (hiện thực dân gian, hiện thực trong các truyện nôm khuyết danh, thần thoại, cổ tích, dã sử, lịch sử) và các vở chèo đề tài cách mạng và kháng chiến (còn gọi là chèo Cách mạng).