Sự vận động, phát triển và những thách thức đối với văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

Ngày 30-4-1975 đánh dấu một sự kiện trọng đại: đất nước thống nhất, chấm dứt chiến tranh, mở ra kỷ nguyên độc lập, hòa bình và phát triển. Những người lính tham gia giai đoạn cuối cùng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc như chúng tôi mỗi khi nghĩ lại, chiêm nghiệm cuộc sống, soi chiếu với lĩnh vực văn học, nghệ thuật đều có nhiều suy ngẫm, trăn trở.

PGS, TS Lê Thanh Bình phát biểu tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” - Ảnh: Lan Anh

 

Vào dịp đất nước toàn thắng, tôi có viết bài thơ "Gặp lại người xưa" sau tự phổ nhạc, được ca sĩ Khánh Duy hát trên làn sóng Đài Phát thanh TP.HCM, sau này ca sĩ Đăng Thuật hát, phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Bài hát có đoạn: “Ngày chia tay anh lên đường ra trận.../ Anh xông pha khắp nẻo đường đất nước/ Lòng anh hằng mong gặp lại mắt biếc người xưa/ Hôm nay đây tóc chúng mình sương điểm/ Gặp nhau rồi ôn lại chuyện ngày qua/ Em ơi em ta là người may mắn/ Bởi thời gian và chiến tranh/ Chẳng làm phai nhạt tình yêu”. Thực tế là từ trước 1975 đến những năm 1980, lớp người kinh qua bộ đội chúng tôi thường tâm niệm cốt lõi văn học lúc đó là: Yêu (quê hương đất nước, người thân, đồng đội, đồng bào và người yêu khác giới - nếu có...), Căm (căm hận kẻ thù giày xéo quê hương, chia cắt đất nước), Chiến (quyết tâm lên đường chiến đấu giải phóng miền Nam), Lạc (lạc quan tin vào chiến thắng). Dư âm hào hùng đó còn thể hiện cả trong đề thi vào đại học đến tận năm 1978 và mấy năm sau.

Từ thời điểm lịch sử 1975 đó, văn học, nghệ thuật Việt Nam bước vào một giai đoạn mới với nhiều vận động, đổi thay mạnh mẽ. Trải qua 50 năm, văn học, nghệ thuật không ngừng phản ánh đời sống xã hội, đồng hành với các công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào, văn học, nghệ thuật Việt Nam cũng đang đối diện với không ít thách thức trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và công nghệ số.

1. Quá trình vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật sau 1975

Giai đoạn 1975-1986: văn học, nghệ thuật vì lý tưởng cách mạng và thống nhất đất nước

Trong số các nhà văn đi tiên phong trong công cuộc vận động, phát triển văn học, có thể nêu tên không ít người đã có thành tựu, góp phần quan trọng từ trước và sau năm 1975 như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Chính Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Minh Châu,  Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Anh Ngọc, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Nhuận Cầm, Vương Trọng...

Trong đó, có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần vận động đổi mới đối với văn học Việt Nam những năm 80 TK XX trên 3 mặt: phát hiện vấn đề, thay đổi lý thuyết và thực tiễn sáng tác, biểu hiện ở các tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Mảnh đất tình yêu. Nguyễn Mạnh Tuấn thu hút được sự chú ý của dư luận với các cuốn tiểu thuyết giàu chất thời sự, như Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Tràm; Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma; Dương Hướng với Bến không chồng. Đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp với sự xuất hiện của các truyện ngắn tiêu biểu, như Tướng về hưu, Muối của rừng, Con gái thủy thần, Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc... Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (lúc đầu lấy tên là Thân phận tình yêu)... (1)...

Nhìn chung, sau ngày đất nước thống nhất, văn học, nghệ thuật vẫn tập trung thể hiện tinh thần chiến thắng, ca ngợi công cuộc bảo vệ và thống nhất Tổ quốc. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật giai đoạn này mang tính tuyên truyền sâu sắc, nhấn mạnh hình tượng người lính, hậu phương lớn miền Bắc XHCN, và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Giai đoạn Đổi mới (1986-2000): văn học, nghệ thuật nhìn lại chiến tranh và đi sâu vào thân phận con người

Thời kỳ Đổi mới mở ra không gian tư duy sáng tạo rộng hơn. Văn học, nghệ thuật bắt đầu phản ánh những mặt trái của xã hội, khát vọng cá nhân, thân phận con người trong bối cảnh hậu chiến và thời kỳ chuyển đổi kinh tế. Các tác phẩm như Thời xa vắng (Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)... trở thành hiện tượng của giai đoạn này. Mỹ thuật, sân khấu, âm nhạc cũng bắt đầu tiếp cận với những thể nghiệm mới. Giai đoạn Đổi mới (1986-2000) đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Sự đổi mới tư duy từ Đại hội VI của Đảng (1986) đã không chỉ tạo ra những biến chuyển lớn trong kinh tế, xã hội, mà còn mở ra một không gian sáng tạo rộng rãi và sâu sắc hơn cho văn học, nghệ thuật. Trong bối cảnh đó, nghệ thuật không còn bị bó buộc vào các khuôn mẫu tuyên truyền một chiều mà dần chuyển sang phản ánh đa chiều về xã hội, thân phận cá nhân, và những ám ảnh của chiến tranh - một chủ đề vốn từng được lý tưởng hóa.

Bối cảnh tư tưởng và chính sách mở đường cho đổi mới văn học, nghệ thuật

Sau một thập niên thống nhất đất nước, văn học, nghệ thuật chủ yếu ca ngợi chiến thắng, lý tưởng hóa con người từng tham gia chiến tranh. Tuy nhiên, thực tiễn đời sống sau chiến tranh - với bao khó khăn về kinh tế, những mất mát, bộc lộ khủng hoảng niềm tin - đã khiến nhu cầu phản ánh hiện thực trở nên cấp thiết. Đổi mới không chỉ là một khẩu hiệu chính trị - nó mở ra cánh cửa cho văn học, nghệ thuật nhìn lại chiến tranh bằng đôi mắt nhân văn, tỉnh táo, và can đảm, phù hợp với biện chứng cuộc sống hơn.

Trong bối cảnh này, sự vận động chuyển mình của văn học là rõ nét nhất. Các nhà văn bắt đầu đặt trọng tâm vào con người cá nhân, với những tổn thương, giằng xé, và khát vọng cá nhân hóa trong thế giới hậu chiến tranh. Nhiều nhà văn đã nhìn hiện thực bằng con mắt khách quan hơn, đi sâu tìm hiểu, lý giải cả những mặt trái; phản ánh nhiều hơn, trực diện và dữ dội, thẳng thắn hơn những hạn chế và mặt trái của xã hội.

Ba tác phẩm văn học tiêu biểu và bước đột phá trong cách nhìn chiến tranh, con người

Thời xa vắng của Lê Lựu: xuất bản năm 1986, ngay trong năm Đổi mới chính thức khởi đầu, là một tiểu thuyết đặc biệt, mở ra chiều sâu nhân bản và phản tỉnh. Nhân vật Giang Minh Sài - một cán bộ quân đội - được khắc họa với những mâu thuẫn nội tâm sâu sắc khi trở về cuộc sống đời thường. Tác phẩm là một sự chất vấn lặng lẽ, nhưng quyết liệt: chiến tranh không chỉ lấy đi tuổi trẻ, mà còn khiến con người mất khả năng sống đời thường, yêu thương, hòa nhập.

Với phong cách kể chuyện nhiều lớp, pha trộn giữa ký ức và hiện tại, Thời xa vắng không chỉ thể hiện nỗi buồn hậu chiến mà còn là tiếng nói của một thế hệ về những bi kịch nhân sinh bị “ẩn giấu” dưới vầng hào quang chiến thắng.

Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp: ra đời năm 1987, là truyện ngắn đã gây ra nhiều tranh luận thời bấy giờ. Không phải là anh hùng oai hùng trở về trong khúc khải hoàn, vị tướng về hưu hiện lên như một người cha già yếu, lạc lõng giữa gia đình đang bị chi phối bởi những giá trị thực dụng, bon chen. Nguyễn Huy Thiệp không phê phán cá nhân nào mà mở ra một không gian tranh biện về giá trị đạo đức đang thay đổi trong xã hội thời kỳ chuyển đổi.

Qua giọng văn sắc lạnh, hình ảnh thực đến trần trụi, Nguyễn Huy Thiệp đã thổi một luồng gió mới vào văn chương Việt - thể hiện tư duy phản biện, lật ngược những khuôn sáo cũ kỹ, đồng thời đề cao trách nhiệm của nghệ thuật trong việc nhìn sâu vào các vết nứt đạo đức xuất hiện khi đời sống giai đoạn mới đa diện và phức tạp hơn rất nhiều so với thời chiến tranh.

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh: được viết đầu thập niên 1990, là một trong những tác phẩm gây chấn động mạnh mẽ nhất sau năm 1975.

Nhân vật Kiên - một cựu binh và nhà văn - sống giữa ký ức chiến tranh và hiện tại cô đơn. Cấu trúc phi tuyến tính, dòng ý thức đan xen, lời văn ám ảnh - tất cả tạo nên một bản hợp xướng của hoài niệm, day dứt, và khắc khoải. Bảo Ninh có cái nhìn “lịch sử từ phía con người” - những người thật bằng xương bằng thịt, đã bị cuốn vào chiến tranh, chịu tác động của quy luật chiến tranh, chịu sự giằng xé trong nội tâm dai dẳng dù họ đã trở về thời bình.

Về thơ ca, xuất hiện khá đông nhà thơ (là hội viên Hội Nhà văn hoặc không phải hội viên) có thể không tuân thủ luật thơ truyền thống, mạnh dạn phá vỡ cú pháp câu thơ, thể hiện ý tưởng bằng ngôn từ giản dị, không trau chuốt. Họ còn sử dụng phong cách thơ Haiku Nhật Bản hoặc các thể thơ ngắn phương Đông để diễn tả những tâm tư, tình cảm, sự vật thời đại mới. Chính lối sáng tác kiểu này kích thích tối đa suy tư của độc giả, gợi mở cho họ đi vào các liên tưởng phong phú, đã tạo nên một cách viết mới, tác phẩm khá độc đáo thời toàn cầu hóa. Các nhà thơ mới có những trăn trở, tìm kiếm, thể nghiệm những đề tài, chủ đề thơ mới, đi ra khỏi những giới hạn của truyền thống... Đó là một xu hướng đáng ghi nhận trong thơ đương đại.

Những thử nghiệm mới trong mỹ thuật, sân khấu, âm nhạc

Trong khi văn học tạo ra những bước ngoặt táo bạo thì các loại hình nghệ thuật khác như mỹ thuật, sân khấu và âm nhạc cũng bắt đầu chuyển mình.

Mỹ thuật giai đoạn này chứng kiến sự xuất hiện của những nhóm họa sĩ theo xu hướng biểu hiện, trừu tượng, và cá nhân hóa như nhóm Sống, nhóm Mở cửa, nhóm Gang of Five (Trương Tân, Đỗ Minh Tâm, Hồng Việt Dũng, Hà Trí Hiếu, Đặng Xuân Hòa). Họ đi sâu vào đề tài đời sống thường nhật, tâm lý con người, và chủ nghĩa bản thể.

Sân khấu đã bắt đầu tiếp cận với những chủ đề gai góc hơn, như tâm lý hậu chiến, sự tha hóa, khủng hoảng niềm tin. Vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ là ví dụ nổi bật cho tư duy phản biện và nhân văn sâu sắc, đặt vấn đề về sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn, giữa lý tưởng và hiện thực.

Âm nhạc bước đầu có sự đổi mới trong ca từ và thể loại. Các ca sĩ, nhạc sĩ trẻ bắt đầu sáng tác với nội dung cá nhân hơn, tâm lý hơn, phản ánh đời sống đa chiều. Nhạc Trịnh Công Sơn thời kỳ này cũng có sức sống mới, được tái hiện và lan tỏa mạnh mẽ hơn trong giới trẻ như một biểu tượng nghệ thuật có chiều sâu nội tâm và phản kháng dịu dàng.

Những rào cản và quan điểm cũ

Tuy nhiên, sự đổi mới của văn học, nghệ thuật giai đoạn 1986-2000 không hề dễ dàng hay thuận lợi tuyệt đối, nó phải trải qua quá trình vận động có nhiều lúc kiểu xoáy trôn ốc, thăng giáng, vượt thắng qua nhiều gian nan. Không ít tác phẩm - nhất là trong văn học và điện ảnh - bị yêu cầu chỉnh sửa, cắt bỏ, hoặc gây tranh cãi trong dư luận lẫn giới quản lý.

Ví dụ: Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh từng bị cấm lưu hành một thời gian. Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp bị chỉ trích là “bôi đen hiện thực”.

Một số tác phẩm mỹ thuật đương đại bị coi là “dị biệt” vì thoát ly hiện thực.

Rào cản lớn nhất theo tôi đến từ tư duy xem văn học, nghệ thuật là công cụ tuyên truyền, phục vụ chính trị hơn là phương tiện khám phá, phản ánh đời sống tinh thần và giá trị nhân văn của con người. Đúng ra, bản lĩnh của các nhà văn, nghệ sĩ chân chính là dám vượt qua định kiến để tạo dựng không gian tự do nội tại cho nghệ thuật và chính những người đó sẽ được xã hội và công chúng ghi nhận.

Đổi mới văn học, nghệ thuật - từ phản ánh hiện thực đến định hình bản sắc

Giai đoạn Đổi mới (1986-2000) là một trong những giai đoạn quan trọng và đầy thử thách của văn học, nghệ thuật Việt Nam. Từ chỗ bị ràng buộc trong khuôn mẫu “anh hùng - cách mạng”, nghệ thuật đã tập trung vào thân phận con người, tái hiện các vấn đề đạo đức - tâm linh - văn hóa trong xã hội hậu chiến và chuyển đổi.

Đây là thời kỳ của sự thức tỉnh tư duy thẩm mỹ và khẳng định vai trò phản biện, khám phá, chữa lành một số “chấn thương” xã hội... của nghệ thuật. Dù chịu nhiều áp lực và giới hạn, nhưng chính giai đoạn này đã đặt nền móng cho một nền văn học, nghệ thuật đa chiều, dân chủ, và gần gũi với con người hơn - một bước tiến không thể đảo ngược trong tiến trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc.

Tiếp nối sự chuyển mình mạnh mẽ trong giai đoạn Đổi mới (1986-2000), văn học, nghệ thuật Việt Nam từ sau năm 2000 đến nay đã bước vào một hành trình mới: hành trình vừa vận động theo hướng giữ gìn bản sắc tốt đẹp, vừa đối diện với những thách thức của toàn cầu hóa, thị trường hóa, và công nghệ số. Giai đoạn này chứng kiến những đổi thay căn bản về môi trường sáng tạo, phương thức sản xuất và tiếp nhận nghệ thuật - đặc biệt là trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên thông tin toàn cầu, hội nhập đa chiều và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ nền công nghiệp giải trí.

Giai đoạn sau năm 2000: Đa dạng hóa đề tài, hình thức và công chúng nghệ thuật

Văn học: người viết chịu ảnh hưởng trào lưu quốc tế; có thể tự do thể hiện, xóa nhòa lằn ranh “trung tâm - ngoại vi”

Sau năm 2000, văn học Việt Nam trở nên cởi mở hơn cả về đề tài, giọng điệu và quan niệm nghệ thuật. Giới nhà văn ngày càng tiếp cận với nhiều phương pháp sáng tác hiện đại trên thế giới, từ chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, hậu hiện đại đến dòng ý thức, tự sự phân mảnh, và cả dòng viết phi hư cấu (non-fiction). Mặt khác, việc mở rộng giao lưu quốc tế cũng đem lại ảnh hưởng nhất định của triết lý, văn hóa, trường phái văn học, nghệ thuật nước ngoài tới người sáng tác nước ta.

Người sáng tác Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng và thi pháp hiện đại: Cụ thể, văn học nước ta đã chịu ảnh hưởng nhất định của các trào lưu hiện đại phương Tây, cụ thể là:

Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo (mô phỏng Gabriel García Márquez) trong tác phẩm của Nguyễn Bình Phương. Chủ nghĩa hậu hiện đại (phá vỡ cốt truyện truyền thống, lồng ghép nhiều lớp ý nghĩa) trong sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu. Hiện tượng Phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh trong thơ và văn của Vi Thùy Linh.

Hội nhập quốc tế giúp văn học Việt Nam mở rộng không gian sáng tác, sự tương tác với văn học nước ngoài nhiều hơn, đa dạng hơn, nhà văn mang sắc thái mới của thời đại khoa học công nghệ phát triển và tư duy của phong cách sống thời toàn cầu: tốc độ nhanh hơn, tình tiết cuộc sống và nhân vật phức tạp hơn, đan xen nhiều biểu cảm, tâm trạng phức cảm - những thứ chỉ xuất hiện trong TK XXI.

Ngoài ra, cần nhấn mạnh việc tiếp thu ảnh hưởng văn học quốc tế thông qua một số quốc gia có mối quan hệ lịch sử đặc biệt. Đó là văn học Việt Nam chịu tác động từ văn học hiện đại Nga, Nhật Bản, Mỹ, Pháp... đặc biệt qua các tác giả như Haruki Murakami, Milan Kundera, Albert Camus...

Xu hướng tự sự đa tầng, cấu trúc phi tuyến tính, yếu tố siêu thực được áp dụng mạnh mẽ trong văn học mới và bước đầu có được xã hội ghi nhận. Những hiện tượng xuất hiện mới mẻ được xã hội chú ý như:

Toàn cầu hóa, số hóa, công nghệ và nền tảng số thay đổi cách tiếp cận văn học: Sự phát triển của internet, e-book, audiobook giúp tác phẩm Việt Nam dễ dàng tiếp cận công chúng quốc tế. Mạng xã hội, blog, nền tảng xuất bản cá nhân (Wattpad, Kindle Direct Publishing) giúp các tác giả trẻ có cơ hội và tự tin hơn để xuất bản và tiếp cận độc giả toàn cầu.

Văn học không còn chỉ hướng vào thực tại Việt Nam mà đã bắt đầu đối thoại với văn học thế giới.

Văn học không còn bị giới hạn bởi tư tưởng cứng nhắc, mà trở thành nơi phản ánh suy tư cá nhân, những câu hỏi về bản sắc, thời đại, lịch sử đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam, thể hiện rõ qua phong cách của các nhà văn như Nguyễn Bình Phương, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh…

Nhiều nhà văn trẻ xuất hiện với các tác phẩm gây tiếng vang: Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận (2005) đem đến một miền Tây buồn, nơi những phận người nhỏ bé vùng sông nước lên tiếng bằng ngôn ngữ giản dị mà ám ảnh. Cô được xem là người kế thừa xuất sắc dòng văn học nhân bản về nông thôn trong thời kỳ mới, đi vào “giải cấu trúc” khung cảnh đạo đức truyền thống.

Phan Việt, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, Hồ Anh Thái, Trần Thị Hồng Hạnh... tạo nên “dòng văn học đô thị” hoặc “văn học nữ” với cách viết đầy cá tính, không né tránh chủ đề giới tính, bản ngã, và nỗi cô đơn của con người thành thị.

Văn học của Việt kiều và văn học dịch giúp bạn đọc mở rộng cái nhìn toàn cầu và đối sánh được vị trí văn học, nghệ thuật dân tộc trong dòng chảy văn hóa nhân loại. Các tác phẩm của Nguyễn Thanh Việt, Linda Lê, Thuận, Lê Minh Hà... phản ánh góc nhìn xuyên văn hóa, đặc biệt là những giằng co của người Việt xa xứ với ký ức và căn tính dân tộc của mình.

Văn học mạng và văn học “phi chính thống” cũng nổi lên như trường hợp của Chuyện tình Tokyo; hay Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của Nguyễn Nhật Ánh - một hiện tượng văn học đại chúng vừa gây ảnh hưởng tới giới trẻ, vừa khơi dậy tinh thần nhân văn, giản dị trong bối cảnh xã hội xô bồ.

Mỹ thuật: xung đột giữa bản sắc truyền thống và thị hiếu toàn cầu

Mỹ thuật đương đại Việt Nam sau năm 2000 mở rộng biên độ biểu hiện: từ tranh sơn dầu truyền thống đến sắp đặt, trình diễn, video art, nghệ thuật thị giác... Nhiều nghệ sĩ như Trương Tân, Nguyễn Mạnh Hùng, Dinh Q. Lê, Nguyễn Trinh Thi, Tiffany Chung... đã vươn ra thế giới, dự nhiều triển lãm quốc tế, mang tới góc nhìn đa chiều về lịch sử, chiến tranh, di cư, ký ức cá nhân - dân tộc.

Tuy nhiên, sự phát triển của nghệ thuật thị trường (market-based art) cũng tạo ra tình trạng chạy theo thị hiếu, phục vụ nhà sưu tập quốc tế hơn là định hình bản sắc nội tại. Một số nghệ sĩ trẻ bị cuốn vào lối diễn đạt “ngông cuồng”, mang tính gây sốc hơn là gợi suy tư.

Âm nhạc - Sân khấu: giằng co giữa giải trí và nghệ thuật

Trong âm nhạc, hai dòng chảy tách biệt ngày càng rõ ràng: Dòng âm nhạc giải trí - thị trường (Pop, Rap, EDM...) phát triển mạnh nhờ internet và nền tảng số. Các nghệ sĩ như Sơn Tùng M-TP, Đen Vâu, Mỹ Tâm... trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng. Âm nhạc trở thành công cụ thể hiện cái tôi, phản ánh nhịp sống đương đại, song cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ trào lưu ngoại lai.

Dòng nhạc bác học, dân gian, truyền thống đang nỗ lực bảo tồn, nhưng gặp khó khăn trong việc tiếp cận lớp công chúng trẻ. Một số dự án như Hồi sinh xẩm, Tiếng hát Then, Đối thoại Đông - Tây của các nghệ sĩ trẻ giúp hình thành cầu nối giữa cổ điển và đương đại, song còn mang tính thử nghiệm hơn là đại chúng hóa.

Sân khấu - nhất là kịch nói và cải lương - đối mặt với khủng hoảng khán giả, thiếu vắng vở diễn hay và nghệ sĩ tâm huyết. Một số sân khấu tư nhân như IDECAF (TP.HCM), Lệ Ngọc (Hà Nội) đang kiên trì khơi gợi lại tình yêu với nghệ thuật sân khấu chính thống, nhưng vẫn còn là hiện tượng cá biệt, “ném đá dò đường”.

Giai đoạn 2000-2025: văn học, nghệ thuật bước vào không gian hội nhập và số hóa

Từ đầu TK XXI, văn học, nghệ thuật Việt Nam chứng kiến sự phát triển mạnh về hình thức và nội dung. Truyền thông đại chúng, mạng xã hội, và công nghệ số trở thành môi trường mới cho sáng tạo nghệ thuật. Tác giả trẻ xuất hiện nhiều với các hình thức mới như truyện mạng, thơ tân hình thức, video art, nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn...

Hội nhập quốc tế cũng đem lại những ảnh hưởng đa chiều. Nhiều tác phẩm văn học được dịch ra tiếng nước ngoài, nghệ sĩ Việt tham gia các triển lãm quốc tế, đoạt giải thưởng khu vực. Tuy vậy, sự phân tầng trong thị hiếu công chúng và sự thương mại hóa quá mức cũng bắt đầu xuất hiện.

2. Thành tựu chính của văn học, nghệ thuật trong 50 năm

Văn học: Đa dạng thể loại, phong phú đề tài, in ấn phát hành cả trong, ngoài nước

Văn học Việt Nam sau 1975 phát triển mạnh về thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch bản sân khấu, phê bình lý luận... Đề tài mở rộng từ chiến tranh, nông thôn, thành thị, công nghiệp hóa đến đô thị hóa, di cư, môi trường, LGBTQ+, nữ quyền, và đời sống tâm linh đương đại. Truyện lịch sử vẫn phát triển, nhưng không chỉ theo lối “kể sử”, “phỏng dựng lịch sử” mà chuyển sang cả hình thức “giải mã lịch sử”. Sự thay thế “cái nhìn sử thi” bằng “cái nhìn tiểu thuyết” là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết đương đại. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh với tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa, Mẫu thượng ngàn cũng là một đóng góp lớn cho những biểu hiện nghệ thuật mới của tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử từ những góc nhìn văn hóa. Ngoài ra, không chỉ nhà văn chuyên nghiệp mà nhà văn không chuyên cũng tham gia vào việc quảng bá văn học nước nhà ra nước ngoài. Ví dụ tác phẩm Ba áng mây và núi (Lê Thanh Bình, 2024) được Ý dịch ra tiếng Ý thông qua bản tiếng Anh của tác giả; Chim xanh tiếng hót xanh trời (Lê Thanh Bình, 2024) được Canada xuất bản...

Nghệ thuật biểu diễn: Phát huy sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại

Cải lương, chèo, tuồng tiếp tục phát triển và có các chương trình phục dựng; đồng thời, các loại hình kịch nói, nhạc kịch, múa đương đại, xiếc được hiện đại hóa để phù hợp thị hiếu. Nhiều nghệ sĩ trẻ thành công với những sáng tạo mới mẻ trên nền tảng văn hóa dân tộc. Một số nghệ sĩ trẻ mạnh dạn sáng tác bằng tiếng Anh, biểu diễn khá thành công và bước đầu có nhóm công chúng riêng.

Mỹ thuật, điện ảnh và nhiếp ảnh: Không gian đổi mới rộng mở

Mỹ thuật có nhiều triển lãm cá nhân, nhóm, nghệ thuật đương đại như video art, body art phát triển nhanh. Điện ảnh Việt Nam khẳng định vị trí với các bộ phim như Mùa len trâu, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Ròm... Nhiếp ảnh vẫn giữ vai trò phản ánh, gìn giữ ký ức thị giác của dân tộc. Nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh có tìm tòi, cống hiến các tác phẩm giá trị, mang về các giải ảnh quốc tế danh giá.

3. Những thách thức đặt ra cho văn học, nghệ thuật hiện nay

Áp lực toàn cầu hóa và “phai nhạt bản sắc”

Sự cọ xát với văn hóa toàn cầu khiến văn học, nghệ thuật Việt Nam dễ rơi vào hai cực đoan: hoặc quá sa đà vào bản địa tính cũ kỹ, bảo thủ; hoặc mất phương hướng, chạy theo thị hiếu nước ngoài. Vấn đề lớn là làm sao “hội nhập mà không hòa tan”, giữ được linh hồn dân tộc giữa dòng chảy thẩm mỹ quốc tế. Bởi lẽ chỉ khi có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, mạnh dạn thử nghiệm, quyết tâm đi lên từ lợi thế, nguồn mạch dân tộc, từng bước vươn ra thế giới thì văn học, nghệ thuật Việt Nam mới có thể khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Đúng như nhà tư tưởng xuất sắc Fukuzawa Yukichi thời Minh Trị đã nói: “Nền độc lập của quốc gia theo suy nghĩ của tôi, chính là để nhân dân ta giao thiệp với nước ngoài, khiến họ luôn giữ được đầu óc năng động qua hàng nghìn gian nan, không bao giờ mất uy thế, như căn nhà vững chãi bất chấp mưa to gió lớn” (2).

Công nghiệp hóa - nhấn mạnh tính đại chúng và khía cạnh tiêu dùng, dễ tiêu thụ văn học, nghệ thuật

Sự nổi lên của các nền tảng mạng xã hội, công nghệ AI, và xu hướng thị trường khiến nhiều sản phẩm nghệ thuật “tồn tại” vì lượng view, chứ không vì giá trị nội dung. Điều này đặt ra câu hỏi lớn: Làm sao nuôi dưỡng văn học, nghệ thuật chất lượng trong môi trường cạnh tranh, nơi nghệ sĩ bị áp lực sáng tạo liên tục để duy trì sự chú ý của công chúng (chú ý toàn diện cả đại chúng và công chúng tinh hoa? Xây dựng mô hình Quỹ hỗ trợ tài năng, lập các Hội đồng thẩm định Dự án văn học, nghệ thuật thế nào cho hợp lý, hiệu quả để bồi dưỡng, tài trợ đúng người, đúng tác phẩm, mở đường cho nghệ sĩ tài năng thực thụ phát triển? Sử dụng AI mức độ nào cho phù hợp để đảm bảo nghệ sĩ chân chính dùng trí tuệ, tài năng, sự rung cảm của mình sáng tạo ra tác phẩm vượt trội thời số hóa AI phát triển mà không lạm dụng AI và công nghệ.

Khủng hoảng công chúng và môi trường tiếp nhận

Một trong những nỗi lo hiện nay là sự “hờ hững” của nhiều công chúng trẻ đối với văn hóa truyền thống, văn học, nghệ thuật bác học. Việc giáo dục thẩm mỹ chưa bài bản, thiếu các không gian thưởng thức nghệ thuật đích thực, cùng với lối sống nhanh, hiện đại khiến nhiều giá trị nghệ thuật bị bỏ lại phía sau.

Các thách thức khác

Vấn đề lý luận - phê bình tụt hậu

Dù sáng tác phát triển đa dạng, nhưng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn. Nhiều hiện tượng văn học mới, nghệ thuật mới chưa được đánh giá khách quan, sâu sắc, dẫn đến khoảng trống nhận thức trong xã hội và học thuật.

Nguy cơ thương mại hóa và đánh mất chiều sâu văn hóa

Áp lực thị trường khiến một số sản phẩm văn học, nghệ thuật chạy theo thị hiếu thấp, làm mờ nhạt giá trị tư tưởng và nghệ thuật, tác phẩm nông, hời hợt, thiếu chiều sâu nội dung, tính triết lý, giá trị văn học, nghệ thuật chưa cao. Một số tác phẩm văn học mạng, phim thị trường, ca khúc “trending” thiếu chiều sâu, xa rời giá trị nhân văn, chỉ thỏa mãn được thị hiếu một số nhóm công chúng.

Sự đứt gãy thế hệ và thiếu lớp kế cận

Đội ngũ nghệ sĩ trẻ tài năng tuy đông đảo, nhưng chưa có sự dẫn dắt đồng bộ từ các thế hệ đi trước. Nhiều nghệ sĩ rơi vào tình trạng tự phát, thiếu định hướng tư tưởng và thẩm mỹ, trong khi nghệ sĩ cao niên khó tiếp cận công nghệ mới.

Thách thức từ toàn cầu hóa và công nghệ số

Sự xâm nhập của văn hóa ngoại nhập, nội dung số xuyên biên giới đặt văn học, nghệ thuật trước nguy cơ bị lấn át, sao chép, đồng hóa. Việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác và tiêu thụ nghệ thuật trở nên cấp bách.

“Về cơ chế, chính sách phát triển văn học, nghệ thuật, thực tiễn cho thấy có độ trễ đáng kể giữa các chủ trương, chính sách và thực tiễn phát triển mạnh mẽ của văn học, nghệ thuật. Các quy định, mô hình quản lý truyền thống chưa bắt nhịp được với đặc thù sáng tạo mới, khiến không gian phát triển của văn học, nghệ thuật vẫn còn không ít ràng buộc và bị động” (3).

4. Định hướng phát triển văn học, nghệ thuật trong tương lai và các khuyến nghị

Một số định hướng phát triển bền vững

Để văn học, nghệ thuật Việt Nam tiếp tục phát triển trong mạnh vượt bậc trong “kỷ nguyên vươn mình” sắp tới, thiết nghĩ cần thực hiện các phương châm sau:

Xây dựng chính sách văn hóa dài hạn, đầu tư đúng mức cho sáng tạo nghệ thuật, nhất là nghệ thuật có chiều sâu. Đổi mới giáo dục nghệ thuật trong nhà trường các cấp từ phổ thông, đại học, sau đại học, giúp hình thành lớp công chúng có năng lực thưởng thức và yêu văn học, nghệ thuật từ nhỏ tuổi.

Tiếp tục khẳng định mục tiêu lâu dài là: Xây dựng nền văn học, nghệ thuật dân tộc, sáng tạo, nhân văn, hiện đại, hội nhập. Cần nhận thức sâu sắc trong toàn xã hội về vai trò của văn học, nghệ thuật trong phát triển con người và xã hội. Văn học, nghệ thuật phải gắn với nhiệm vụ xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam thời kỳ mới, vừa bảo tồn truyền thống vừa cập nhật xu hướng hiện đại.

Các khuyến nghị

Nhằm thực hiện các mục tiêu lâu dài và triển khai các chính sách cốt lõi để văn học, nghệ thuật Việt Nam tiếp tục vận động đúng quy luật, phát triển vượt bậc lên những tầm cao mới, phải sớm có các giải pháp đồng bộ. Cụ thể là:

Cần có chính sách văn học, nghệ thuật dài hạn, xây dựng chiến lược phát triển không chỉ theo nhiệm kỳ 5 năm hoặc thời kỳ 10 năm mà phải là chiến lược dài hạn tầm 45-50 năm rồi phân ra các chiến lược và lộ trình thành phần mới bảo đảm tầm nhìn dài, rộng, bài bản. Giảm bớt các Hội hoạt động kiểu hành chính sự nghiệp, tăng cường chức năng tổ chức sáng tác, đưa tác phẩm văn học, nghệ thuật dự thi tại các giải khu vực và quốc tế. Việc phát hiện, đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng, tôn vinh cũng cần cải tiến để phù hợp với giai đoạn mới, đòi hỏi thực chất hơn, công bằng hơn, kịp thời hơn.    

Đẩy mạnh số hóa, tạo các nền tảng truyền thông - xuất bản giúp nghệ sĩ đưa sản phẩm tới công chúng dễ dàng hơn, đồng thời bảo tồn di sản một cách sống động.

Tăng cường không gian sáng tạo, đầu tư và cơ chế bảo trợ cho nghệ thuật.

Nhà nước và xã hội cần tạo hành lang pháp lý, đầu tư tài chính, đào tạo nguồn nhân lực để phát triển văn học, nghệ thuật. Xây dựng các quỹ sáng tạo, vườn ươm tài năng, và các trung tâm văn học, nghệ thuật ứng dụng công nghệ cao.

Tập trung nguồn lực, nhất là đội ngũ giảng dạy có bằng cấp cao, nhiệt huyết (gồm cả nghệ nhân giỏi đang giữ bí quyết sáng tạo những tác phẩm văn học, nghệ thuật dân tộc đặc sắc) - đội ngũ “máy cái” đào tạo các chuyên ngành về sáng tác, sáng tạo tác phẩm, dịch vụ văn học, nghệ thuật, Marketing quảng bá sản phẩm cả trong, ngoài nước. Mặt khác, nên chú trọng phát triển chọn lọc một số lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa để tăng lợi nhuận và “sức mạnh mềm” của văn hóa dân tộc, sử dụng một phần lợi nhuận để gây Quỹ văn học, nghệ thuật hoặc đầu tư cho người tài trong sáng tác tác phẩm văn học, nghệ thuật giá trị cao.

Giáo dục thẩm mỹ, văn hóa, nghệ thuật trong học đường các cấp cần được đổi mới toàn diện, kịp thời, phù hợp thời đại và lợi thế văn hóa dân tộc. Công tác lý luận - phê bình phải bắt kịp thực tiễn sáng tạo, khơi dậy tinh thần tranh luận học thuật tích cực và khai phóng.

Chủ động hội nhập quốc tế có chọn lọc: hội nhập văn hóa phải trên tinh thần tự tôn bản sắc nổi bật và bản lĩnh văn hóa thể hiện hài hòa, độc đáo trên các tác phẩm của nhà sáng tác Việt Nam. Tăng cường xuất khẩu tác phẩm văn học, nghệ thuật Việt ra thế giới thông qua dịch thuật, triển lãm, giao lưu, hợp tác đa phương, song phương và khuyến khích chính các nghệ sĩ, nhà sáng tác, nhà quản lý văn học, nghệ thuật, nhà đầu tư… giao lưu với đối tác nước ngoài, thúc đẩy các hợp tác chuyên môn, phổ biến tác phẩm hiệu quả.

Kết luận

Với chiều dài 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, văn học, nghệ thuật Việt Nam đã có nhiều bước tiến vượt bậc, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khơi dậy lòng yêu nước và khẳng định vị thế văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, văn học, nghệ thuật cần đối mặt và vượt qua nhiều thách thức, đòi hỏi sự đổi mới tư duy, đầu tư toàn diện và sự chung tay của cả xã hội để phát triển bền vững và vươn tầm quốc tế. Tại Hội nghị gặp mặt đại biểu văn nghệ sĩ toàn quốc tại Hà Nội ngày 30-12-2024, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước, nhân dân trông chờ và tin tưởng vào sự chuyển mình, vươn lên mạnh mẽ, đóng góp tích cực của đội ngũ văn nghệ sĩ trong giai đoạn cách mạng mới”.

Từ sau 1975 đến nay, văn học, nghệ thuật Việt Nam đã trải qua một hành trình chuyển biến mạnh mẽ, từ cái nhìn tập thể đến tiếng nói cá nhân, từ khuôn mẫu lý tưởng đến đa dạng hình thức và nội dung. Chuẩn bị bước sang thập kỷ thứ Ba của TK XXI, văn học, nghệ thuật đang đứng trước cơ hội lớn để cất cánh cùng thế giới, thách thức lớn để không bị đồng hóa, thương mại hóa.

Sự phát triển bền vững của văn học, nghệ thuật Việt Nam trong tương lai sẽ phụ thuộc vào khả năng cân bằng giữa phát huy bản sắc và sáng tạo, giữa truyền thống và đổi mới, giữa nội lực văn hóa và thế giới hiện đại. Khi nghệ thuật thực sự “chạm đến ngóc ngách tâm hồn con người”, phản ánh đúng đời sống và khơi dậy chiều sâu tinh thần, thì dù trong bất cứ thời đại nào, nó vẫn sẽ là nguồn lực quan trọng của dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, phát triển cùng dân tộc và tỏa sáng trên trường quốc tế…

                    

1. Nguyễn Thế Kỷ, Văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm đổi mới, phát triển cùng đất nước (Phần 1), dangcongsan.vn, 16-10-2024.

2. Fukuzawa Yukichi, Bàn về văn minh (Bản dịch của Lê Huy Vũ Nam, Nguyễn Anh Phong), Nxb Thế giớiNhã Nam, 2022, tr.423.

3. Việt Thương, 50 năm nền văn học nghệ thuật Việt Nam phát triển cùng đất nước, nguoihanoi.vn, 19-4-2025.

                     

Tham luận tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6-2025.

 

PGS,TS. LÊ THANH BÌNH

nguyên Vụ trưởng, Tham tán Công sứ, Trưởng khoa Truyền thông và Văn hóa Đối ngoại, Học viện Ngoại giao

;