1. Lý luận, phê bình sân khấu là một chuyên ngành khoa học mang trong mình cả lý luận lẫn phê bình. Lý luận là kết quả của quá trình mà con người đúc kết ra kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật sân khấu, trí thức khách quan về những quy luật vận động, phát triển của hiện thực nghệ thuật sân khấu. Phê bình là sự thẩm định, đánh giá, giải thích, phát hiện, định hướng… những giá trị sáng tạo của một tác phẩm, một tác giả, một giai đoạn, một khuynh hướng, một trào lưu cụ thể. Phê bình thuộc về tư duy lôgic mang nội dung đàm luận nhằm phát triển sự sáng tạo không ngừng.
Lý luận, phê bình sân khấu là anh em ruột thịt trong đại gia đình nghệ thuật sân khấu. Vị trí của nó luôn được bình đẳng với tác giả, đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ, họa sĩ, biên đạo múa và khán giả của nghệ thuật sân khấu. Lý luận, phê bình sân khấu không bao giờ được đứng cao hơn hay thấp hơn, mà ngang hàng với tác giả, đạo diễn… để cùng có nghĩa vụ “sinh tử, vui buồn” trong nghệ thuật sân khấu. Vì vậy, đã có người ví von, coi nhà lý luận phê bình sân khấu là bác sĩ của sân khấu. Nền nghệ thuật sân khấu nào mà thiếu hoặc yếu bác sĩ ấy, thì nền nghệ thuật sân khấu sẽ có hậu quả khuyết tật, còm cõi và chết yểu.
Lý luận, phê bình sân khấu là một chuyên ngành đặc biệt vì mang trong mình cả tư duy hình tượng lẫn tư duy lôgic. Nếu không có khả năng tư duy hình tượng thì nhà lý luận, phê bình sân khấu sẽ không có khả năng thấu hiểu, đồng hành với sáng tạo của các nghệ sĩ. Để từ đó rút ra những quy luật khách quan, thuyết phục nghệ sĩ. Cho nên, nhà lý luận, phê bình sân khấu cũng là nghệ sĩ như mọi nghệ sĩ, để có tiếng nói của nghệ sĩ bằng tư duy lôgic trong các hình tượng nghệ thuật sân khấu.
Cảnh trong vở Ngọn lửa Hồng Sơn
của Nhà hát Tuồng Việt Nam - Ảnh: Thanh Hà
Lý luận, phê bình sân khấu là một chuyên ngành đặc biệt nhưng bao giờ cũng được thể hiện bằng những cá nhân cụ thể, đòi hỏi mỗi cá nhân lý luận phê bình sân khấu phải có năng khiếu bẩm sinh nổi trội và không ngừng học tập, trau dồi lý luận và thực tiễn. Người lý luận, phê bình phải có năng lực, biết phát hiện, phản biện vấn đề và biết lý giải vấn đề đầy thuyết phục. Năng khiếu bẩm sinh của nhà lý luận, phê bình sân khấu không chỉ thể hiện ở khả năng phát hiện, phản biện, lý giải, mà còn ở cả tính trung thực. Tính trung thực này đòi hỏi nhà lý luận, phê bình sân khấu không biết cong lưng, uốn gối, khuất phục trước cường quyền, tiền bạc để nói “nửa sự thật” làm vừa lòng nghệ sĩ non kém, tầm thường. Bởi “nửa sự thật” chưa phải là sự thật. Mặt khác, sân khấu là loại hình tổng hợp, nên nhà lý luận phê bình sân khấu cũng phải có tri thức tổng hợp về văn hóa, lịch sử, văn học, triết học, chính trị học, xã hội học và sân khấu học… để có bản lĩnh đánh giá, bình phẩm, định hướng những sáng tạo của nghệ sĩ.
Ngành lý luận, phê bình sân khấu là ngành khó và trở thành một nhà lý luận, phê bình sân khấu lại càng khó hơn. Nghệ thuật sân khấu hôm nay và mai sau không thể không có lý luận, phê bình sân khấu. Thiếu lý luận, phê bình sân khấu là một khiếm khuyết lớn của nền nghệ thuật mỗi dân tộc.
2. Ở Việt Nam, ngành lý luận, phê bình sân khấu chưa có truyền thống. Sự hiện diện của nó, hôm nay cũng không thể gọi là chuyên nghiệp hoàn toàn. Lý luận, phê bình sân khấu còn mang tính phong trào, tự do, cảm hứng, có cũng tốt, không có cũng chẳng sao. Những ai đã được gọi là “nhà lý luận, phê bình” cũng nhận thấy mình chưa xứng đáng với danh hiệu đó. Vì họ chưa bao giờ coi phê bình sân khấu là nghề nghiệp sống còn của mình. Bài viết của họ có công phu đến mấy, đăng trên báo thì cũng chỉ được ít tiền nhuận bút, không tương xứng với giá trị của cái “đầu vào”. Cho nên, một nhà lý luận, phê bình tài năng dù phải làm việc cật lực suốt đời, cũng không thu được số tiền nhuận bút bằng một tác giả bình thường, trong một vở diễn bình thường. Do đó, nhiều người được đào tạo làm nghề lý luận, phê bình sân khấu hoặc đã từng có tiếng tăm một thời, thì sớm muộn cũng phải “chạy làng” sang những ngành khác để tồn tại, như dạy học, sáng tác, đạo diễn… Họ thường than thở với nhau: vào nghề thì muộn, nhưng ra đời lại quá sớm. Vì ai được đào tạo làm nghề lý luận, phê bình sân khấu cũng đã phải kinh qua thực tiễn sân khấu trên dưới 10 năm. Các nhà hát, các đơn vị nghệ thuật, các nghệ sĩ hầu như chưa bao giờ coi nhà lý luận, phê bình sân khấu là thành viên thân thiết của mình trong sáng tạo. Họ có thể lao đi tìm tác giả, đạo diễn, họa sĩ, nhạc sĩ và các nhà chính trị để xây dựng tiết mục mới. Còn nhà lý luận, phê bình thì không cần. Họ cho rằng nhà lý luận, phê bình đến chỉ thêm rắc rối, phiền toái.
Tuy vậy, nhiều nhà lý luận, phê bình sân khấu, một mặt vì yêu nghề, mặt khác vì trọng bạn, nên đã sẵn sàng bỏ tiền lương ít ỏi của mình ra mua vé để xem và viết rất thành tâm, công phu. Chẳng may bài viết chê nhiều, khen ít, dù có thực lòng thì nhà lý luận, phê bình vẫn bị các bạn nghệ sĩ chê trách, cô lập và không thân thiện. Lương thấp, nhuận bút ít, làm việc tận tụy để được “cái ghét” thì đành thượng sách phải “chạy làng” hoặc hạ sách là “uốn bút”…
Khi các nhà lý luận, phê bình có tay nghề rời khỏi văn đàn thì hàng loạt những cây bút “trái tay” xuất hiện. Họ là nhà báo, họa sĩ, thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, diễn viên… tung hoành những quan điểm, ý kiến của mình tràn lan trên các mặt báo. Bài của họ, trước hết, rất đáng hoan nghênh, có những giá trị nhất định và mang ý nghĩa của tiếng nói công chúng khán giả. Nhưng, suy cho cùng, tiếng nói của họ chưa thể trở thành ý kiến “chính thống”, vì những bài viết còn mang nhiều cảm tính, thiếu khoa học của đôi mắt nhà nghề. Họ thường tường thuật cốt truyện, giới thiệu qua về tác giả, đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ, họa sĩ… rồi khen chê vài lời rất chung chung để vừa lòng đơn vị nghệ thuật. Vì vậy, những ai muốn nghiên cứu về vở diễn, về nhà hát hay chân dung nghệ sĩ, tác giả, đạo diễn hoặc sự phát triển nghệ thuật của một giai đoạn, một khuynh hướng của một nhà hát, một nền nghệ thuật sân khấu nào đó, qua những bài báo này, thì hoàn toàn bất lực. Không ít các bài báo mang nội dung sai lệch: cái đáng khen lại chê, cái đáng chê lại cổ vũ, làm nhiễu loạn giá trị của tác phẩm trong khán giả. Đặc biệt, lý luận, phê bình ở các đơn vị nghệ thuật địa phương hoàn toàn bị lãng quên, bỏ trống và nếu có thì bị méo mó, rất đáng tiếc.
Tóm lại, thực trạng của lý luận, phê bình sân khấu Việt Nam hôm nay, như Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị (khóa X) đã chỉ rõ: “Hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác… Hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, thực hiện chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ; xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả và tác phẩm, văn hóa phê bình bị hạ thấp…”.
3. Lý luận, phê bình sân khấu Việt Nam được xuất hiện trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nguồn đào tạo chính cho đội ngũ lý luận, phê bình sân khấu là do Liên Xô, Trung Quốc, Trường Đại học Tổng hợp Văn (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) và Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội. Đội ngũ này phát huy được vai trò tiên phong khi nền sân khấu cách mạng phát triển cực thịnh, tạo ra được vị thế của lý luận, phê bình sân khấu Việt Nam. Nhưng, từ những năm 80 của TK XX trở lại đây, lý luận, phê bình sân khấu có chiều hướng tụt hậu. Hiện nay, các cây bút phê bình gạo cội đã đi vào cõi vĩnh hằng hoặc già yếu, ốm đau, bệnh tật và nguồn lực mới hầu như không có (trường không mở lớp, sinh viên không đến thi tuyển, nước ngoài không tiếp nhận đào tạo), làm cho cơ nghiệp ngành lý luận, phê bình sân khấu Việt Nam trở nên ảm đạm muôn phần.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này, trước hết, lý luận, phê bình sân khấu đã đối lập với văn hóa truyền thống Việt Nam là văn hóa duy tình, với phương châm đạo đức: “chín bỏ làm mười”, “dĩ hòa vi quý”, “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”… Mặt khác, cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế được diễn ra, những người làm lý luận, phê bình sân khấu đã không có một hệ thống giá trị thẩm mĩ chuẩn để làm điểm tựa cho ngòi bút của mình.
Lý luận, phê bình sân khấu, theo như Belinski khẳng định là “mỹ học vận động”, “ý thức triết học” và theo Nguyễn Khoa Điềm là “ngọn roi” phản kích âm mưu, ý đồ đen tối của kẻ địch trong lĩnh vực văn nghệ. Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật nói chung, lý luận, phê bình sân khấu nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Trong Nghị quyết TƯ 5 (khóa VIII), Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa X), Nghị quyết 33 - NQ//TW của Hội nghị Trung ương 9 (Khóa XI)… và nhiều hội thảo khoa học của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương cũng như các hội văn học nghệ thuật Việt Nam những năm gần đây đã đề xuất những chủ trương, giải pháp để phát triển đội ngũ, nâng cao lý luận, phê bình. Chắc chắn, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII sắp tới của Đảng sẽ có những quyết sách mới ra đời nhằm phục hưng nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam, xây dựng hệ giá trị thẩm mĩ của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, làm điểm tựa cho lý luận, phê bình sân khấu và tạo ra môi trường bền vững cho hoạt động lý luận, phê bình sân khấu Việt Nam.
Tác giả: Trần Trí Trắc
Nguồn: Tạp chí VHNT số 427, tháng 1-2020