• Thông tin tư liệu > Tư liệu trong nước

TANG LỄ CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ

Ba Vì là xã miền núi duy nhất của Hà Nội có người Dao quần chẹt cư trú thành cộng đồng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng, văn hóa truyền thống của người Dao nơi đây đã có những biến đổi nhất định. Tuy nhiên, do tính cộng đồng sâu sắc mà một số nét văn hóa của người Dao được bảo tồn khá toàn diện, trong đó có nghi lễ tang ma. Đây là nghi lễ cuối cùng trong chu kỳ vòng đời của mỗi con người, không chỉ có ý nghĩa tiễn đưa linh hồn người chết về với thế giới tổ tiên mà còn để bảo vệ sự yên bình cho người đang sống.

NGHỆ THUẬT TRANH KHẮC GỖ HIỆN ĐẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật tranh khắc gỗ TP.HCM có những chuyển biến rất rõ về đề tài cũng như hình thức thể hiện tác phẩm của từng tác giả. Đội ngũ họa sĩ làm tranh khắc gỗ ngày càng hùng hậu và đặc biệt trong các triển lãm khu vực thời gian gần đây, số lượng tác phẩm, tác giả tăng lên và có nhiều tác phẩm đạt giải thưởng cao. Nghệ thuật tranh khắc gỗ hiện đại tại TP.HCM luôn đóng vai trò quan trọng đối với mỹ thuật khu vực Nam Bộ cũng như nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

BẢO TỒN HÁT RU TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG

Từ lâu đời, hát ru đã đồng hành trong đời sống sinh hoạt của nhân dân ta, tạo nên một ký ức văn hóa đẹp đẽ. Theo dòng chảy thời gian, hát ru đã trở thành một loại hình nghệ thuật đặc trưng với những làn điệu trữ tình, sâu lắng, lời ca mộc mạc, thiết tha, chân thành, giản dị, có sức lay động lòng người, góp phần bồi đắp nên nhân cách, tâm hồn cao đẹp của các thế hệ con người Việt Nam.

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO VỚI VAI TRÒ HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP

Sáng tạo là tiềm năng vô tận của con người, đồng thời là một trong những yếu tố cốt lõi của nền kinh tế sáng tạo mà các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang ưu tiên phát triển. Việc xây dựng các không gian sáng tạo (KGST), nơi thực hành hoạt động nghệ thuật, kết nối nghệ sĩ với nghệ sĩ, nghệ sĩ với cộng đồng là bước hiện thực hóa các mục tiêu phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Qua nghiên cứu tài liệu và thực tế hoạt động của một số KGST tại Hà Nội, bài viết tập trung làm rõ vai trò hỗ trợ khởi nghiệp cho những người trẻ trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo.

VAI TRÒ CỦA VIỆC QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN

Trong lĩnh vực thông tin - thư viện, nguồn nhân lực là “một trong bốn yếu tố cấu thành nên thư viện và là linh hồn của cả thư viện”. Tuy nhiên, để có thể phát huy tối đa vai trò của nguồn nhân lực, các cơ quan thông tin thư viện phải triển khai công tác quản lý một cách có hiệu quả. Quản lý nguồn nhân lực chính là quản lý tất cả các hoạt động hoạch định, tuyển dụng, tuyển chọn, duy trì, phát triển, sử dụng, đánh giá, bảo toàn và giữ gìn một lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu công việc của tổ chức. Nói cách khác, quản lý nguồn nhân lực là hệ thống các triết lý, chính sách và các hoạt động chức năng về thu hút, đào tạo, phát triển và duy trì con người của một tổ chức nhằm đạt được kết quả tối ưu cho cả tổ chức lẫn nhân viên.

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TINH THẦN CHIẾN ĐẤU CHO NGƯỜI CHIẾN SĨ

Tinh thần chiến đấu được coi là một trong những phẩm chất cốt lõi của nhân cách người chiến sĩ, là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng, quyết định sự thành bại của hoạt động quân sự. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển tinh thần chiến đấu cho người chiến sĩ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác huấn luyện giáo dục ở các đơn vị quân đội hiện nay.

CÔNG TÁC QUẢN LÝ VĂN HÓA TRONG CÁC KHU ĐÔ THỊ Ở HÀ NỘI

Quản lý văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa. Trước các tác động của tiến trình toàn cầu hóa, tốc độ đô thị hóa đang diễn ra khá nhanh, làm biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Tính đến thời điểm hiện nay, đất nước ta đã xuất hiện trên 750 khu đô thị mới (KĐTM), riêng thủ đô Hà Nội có trên 30 KĐTM, đó là một trong những thành tựu lớn của chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

MỘT KHÍA CẠNH CỦA DIỄN NGÔN DÂN TỘC TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI

Tính dục là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết của Chu Lai sau đổi mới. Nhà văn đã sử dụng thành công hệ thống ngôn ngữ thân thể như một phương tiện đắc lực để thể hiện diễn ngôn tính dục. Song cũng như bất cứ diễn ngôn nào, tính dục không chỉ là vấn đề thuần nhất thuộc bản năng con người. Dựa trên bối cảnh xã hội đương thời được phản ánh trong tác phẩm, sự chi phối của những chi tiết nhục cảm, chúng ta có thể xác nhận sự tồn tại của diễn ngôn dân tộc qua tính dục trong tiểu thuyết của Chu Lai.

Ý THỨC DÂN TỘC ĐẠI VIỆT TRONG THƠ BANG GIAO THẾ KỶ X-XIV

Lịch sử trung đại Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống lại các triều đại phong kiến phương Bắc để giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa, cốt cách Đại Việt. Những thắng lợi vẻ vang hào hùng của thời đại đánh Tống dẹp Nguyên, cộng với một xã hội hài hòa, an yên chính là những yếu tố khiến tinh thần dân tộc giai đoạn này đậm nét hơn các giai đoạn khác. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác thơ ca, trong đó có thơ bang giao. Ý thức dân tộc trong thơ bang giao TK X-XIV được thể hiện trên nhiều bình diện: tự hào về nền văn hiến, những chiến công của dân tộc, những danh thắng và niềm tự hào về phạm vi lãnh thổ.

GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA CHẤT LIỆU TRONG THIẾT KẾ BAO BÌ

Ngày nay, các loại hình nghệ thuật nói chung và nghệ thuật thiết kế đồ họa của con người nói riêng đã có những bước tiến dài, những thành tựu đáng kể, như nghệ thuật hội họa sản sinh ra nhiều trường phái, phong cách, bút pháp thể hiện và với nhiều loại chất liệu khác nhau, hay trong nghệ thuật thiết kế đồ họa đã có rất nhiều kỹ thuật, phương pháp, ứng dụng thiết kế mẫu mã rất hiện đại và đa dạng. Tuy nhiên ở bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào, dù hội họa hay thiết kế, trường phái hay phong cách, kỹ thuật hay chất liệu nào thì nghệ sĩ sáng tạo đều cần vận dụng những yếu tố tạo hình để tạo ra tác phẩm. Ngoài yếu tố cơ bản như đường nét, hình mảng, màu sắc, hình khối, không gian, vấn đề chất liệu và tính thẩm mỹ của chúng là một yếu tố vô cùng quan trọng.

NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC Ở BA NGÔI MỘ QUẬN CÔNG THẾ KỶ XVII

Ba lăng mộ có số lượng di vật kiến trúc và chạm khắc đá khá tiêu biểu ở cuối TK XVI và XVII là các lăng mộ Phúc Khê tướng công Nguyên Văn Nghi, lăng Quận công Lê Thời Hiến (Thanh Hóa) và lăng mộ Quận công Vũ Hồng Lượng (Hưng Yên). Đây là nhóm lăng có cùng chung nguồn gốc từ phường thợ An Hoạch (núi Nhồi, Thanh Hóa), lại cùng chung ý thức hệ tư tưởng, văn hóa giai đoạn đầu thời Trung Hưng nhà Lê, với nhiều sự tương đồng trong nghệ thuật chạm khắc đá mang tính pha trộn giữa nghệ thuật Lê sơ và phong cách Mạc. Nhóm lăng này đồng thời được cho là khởi đầu cho phong cách nghệ thuật điêu khắc lăng mộ quận công thời hậu Lê TK XVII - XIX ở Việt Nam.