Ứng dụng công nghệ 4.0: Những thách thức đối với sân khấu Việt Nam

Tóm tắt: Công nghiệp 4.0 đã đưa xã hội phát triển ở một tầm cao mới và đặt ra cho nghệ thuật sân khấu Việt Nam nhiều thách thức, nổi bật ở 7 khía cạnh: cơ sở vật chất tại các rạp hát, nhà hát; sự gia tăng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường; nguồn nhân lực am hiểu và làm chủ công nghệ trong sáng tạo nghệ thuật; những vấn đề xã hội mới, phản ánh trong tác phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của khán giả đương đại; sự đẩy mạnh sâu hơn hội nhập quốc tế, dẫn đến nguy cơ cao hơn đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; vấn đề lạm dụng hoặc lợi dụng công nghệ trong sáng tạo tác phẩm; chi phí đầu tư cho công nghệ 4.0. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới sáng tạo, tạo động lực để sân khấu Việt Nam chuyển mình, bắt kịp thời đại số.

Từ khóa: công nghệ 4.0, sân khấu, sân khấu Việt Nam, thách thức.

Abstract: Industry 4.0 has elevated society to a new level of development and posed numerous challenges for Vietnamese theatre arts, most notably across seven key aspects: facilities at theatres and stages; the increase in fierce market competition; human resources with the knowledge and skills to master technology in artistic creation; new social issues reflected in works that meet the needs and aesthetic tastes of contemporary audiences; the further promotion of international integration, leading to a higher risk of losing national cultural identity; the problem of abusing or overusing technology in artistic creation; and the investment costs for Industry 4.0 technology. On that basis, the article proposes several solutions to foster artistic innovation, creating a new momentum for Vietnamese theatre to transform and keep up with the digital age.

Keywords: technology 4.0, theatre, Vietnamese theatre, challenges.

Cảnh trong vở Hồ Thiên Nga của Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam - Ảnh Thanh Hà

Theo các chuyên gia và các nhà khoa học, cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất, dẫn đến sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế, xã hội và cả văn hóa. Nếu như Cách mạng công nghiệp 1.0 (cuối TK XVIII - đầu TK XIX) gắn liền với sự ra đời của động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động cơ bằng cơ khí; Cách mạng công nghiệp 2.0 (bắt đầu vào khoảng thập kỷ 1850) gắn liền với sự ra đời của động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện; Cách mạng công nghiệp 3.0 (bắt đầu khoảng từ năm 1969) gắn liền với sự phát triển của chất bán dẫn, máy tính và internet…, thì Cách mạng công nghiệp 4.0 (bắt đầu vào đầu TK XXI) được ra đời trên nền tảng cải tiến của cuộc cách mạng số với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới… Những thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp đều đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực tại Việt Nam, bao gồm cả nghệ thuật sân khấu.

Có thể thấy rõ những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 1.0 và 2.0 được du nhập và tiếp nhận ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến những năm tháng chiến tranh cách mạng, tạo cho xã hội Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hóa khi từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, từ lao động chân tay sang lao động bằng máy. Chính những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 1.0 và 2.0 đã khiến nghệ thuật sân khấu Việt Nam cũng phát triển theo hướng hiện đại hóa: từ nghiệp dư thành chuyên nghiệp, từ chỗ chỉ biểu diễn phục vụ và phản ánh nội dung gắn liền với đời sống xã hội phong kiến sang phục vụ và phản ánh nội dung gắn liền với khán giả thuộc những giai cấp, tầng lớp mới với những vấn đề mới; từ chỗ sân khấu chỉ có ánh đèn dầu, đuốc sang ánh điện; từ chỗ chỉ có âm thanh thực từ dàn nhạc và đài từ của diễn viên đến chỗ có micro hỗ trợ; từ chỗ đi biểu diễn từ làng này sang làng khác bằng xe ngựa, xe bò, đi bộ sang đi biểu diễn từ tỉnh, thành này đến tỉnh, thành khác, nước này sang nước khác bằng các phương tiện tàu thủy, tàu điện, ô tô, máy bay; từ chỗ chỉ lưu giữ, phổ biến kịch bản bằng truyền miệng, viết tay sang in ấn phát hành thành sách, báo và đĩa hát…

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp 3.0, gắn liền với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của công nghệ video analog trên băng cassette; công nghệ ghi quang học để thu phát âm thanh, hình ảnh thông qua đĩa CD, VCD, DVD; công nghệ phát anolog của phát thanh, truyền hình… và đặc biệt của internet đã tác động mạnh đến nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Nhiều tác phẩm sân khấu được truyền đến đông đảo khán giả từ nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến nước ngoài… thông qua các băng đĩa, internet một cách tinh gọn, nhanh chóng với chi phí thấp, tiện lợi khi chỉ cần ngồi nhà là có thể xem được nhiều vở diễn, chương trình khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính sự phát triển của công nghệ thu phát âm thanh, hình ảnh, cùng với sự phát triển như vũ bão của internet đã khiến nghệ thuật sân khấu ngoài rạp ở Việt Nam không đủ sức cạnh tranh, bị lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu khán giả.

Đến cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, theo các chuyên gia, là kiểu cách mạng chưa có tiền lệ và hiện tại, cả thế giới đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này. Cách mạng công nghiệp 4.0 với công nghệ mới đưa xã hội phát triển ở một tầm cao mới và đặt ra cho nghệ thuật sân khấu Việt Nam nhiều thách thức gay gắt hơn nếu bản thân những người làm sân khấu không tự đổi mới mình cho phù hợp.

Trước hết, về cơ sở vật chất, hệ thống các rạp hát, nhà hát ở Việt Nam hiện nay hầu hết đều lạc hậu, không đồng bộ. Điều này dẫn đến các đơn vị nghệ thuật khi dàn dựng một số vở diễn đòi hỏi hiệu ứng âm thanh đa chiều, âm nhạc điện tử, hoặc hòa âm phức tạp, thì thường phải thuê thiết bị bên ngoài, gây tốn kém chi phí và thiếu chủ động trong dàn dựng; còn các thiết bị do chưa được đầu tư đồng bộ nên không khai thác được tối đa công năng hoặc bị cháy hỏng. Trong khi đó, công nghệ 4.0 hội tụ ở đỉnh cao của các lĩnh vực công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy, tích hợp con người - máy móc… đòi hỏi các rạp hát, nhà hát sân khấu phải được thiết kế, xây dựng, nâng cấp sao cho phù hợp, nhằm vừa đáp ứng yêu cầu của công việc sáng tạo nghệ thuật, vừa thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ mới của khán giả. Điều này dẫn đến sân khấu Việt Nam, trong quá trình tồn tại, phát triển, với hệ thống cơ sở vật chất cũ kỹ, lạc hậu, gặp khó khăn trong việc thu hút khán giả.

Công nghệ 4.0 làm thay đổi mỗi con người (sự riêng tư, phương thức tiêu dùng, cách thức làm việc, thời gian cho công việc, giải trí, quan hệ xã hội…); tạo ra nhiều sản phẩm giải trí và dịch vụ mới được thực hiện từ xa với chi phí không đáng kể phục vụ người tiêu dùng; internet, điện thoại thông minh, công nghệ kỹ thuật số digital và hàng ngàn ứng dụng giúp cuộc sống của con người trở nên dễ dàng hơn, năng suất hơn… làm sân khấu chịu nhiều áp lực cạnh tranh khốc liệt hơn. So sánh ngay với âm nhạc, có thể thấy, hiện nay, nhờ công nghệ 4.0, khán giả không cần phải đến rạp hát hay chờ đến lúc ca sĩ ra đĩa mới để mua, mà chỉ cần ngồi nhà với một chiếc điện thoại smartphone hoặc TV kết nối mạng internet là có thể xem, nghe bất cứ thứ gì mình muốn, kể cả các bài hát mới, các MV được cập nhật từng phút. Đây là điều sân khấu khó theo kịp, nhất là khi ở các đơn vị nghệ thuật sân khấu công lập còn không ít nhà quản lý vẫn mang tư duy bảo thủ, e ngại sự đổi mới, giữ nguyên cách tổ chức nhân sự, phương thức hoạt động để tiếp cận khán giả theo kiểu cũ, dẫn đến tồn tại chật vật, đứng trước nguy cơ bị đào thải theo quy luật cạnh tranh trên thị trường.

Công nghệ 4.0 với sự phát triển ứng dụng người máy kết nối, hội tụ của trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và internet, thực tế ảo, thực tế tăng cường…sẽ thay thế những nhân viên hậu đài làm các công việc nặng nhọc như vận chuyển, lắp ráp sân khấu ngoài trời, trang trí bối cảnh, thực hiện các kỹ xảo, thủ pháp nghệ thuật… đòi hỏi kỹ thuật phức tạp…Tuy nhiên, mọi máy móc không thể thay thế được người nghệ sĩ. Vì nghệ thuật sân khấu thuộc lĩnh vực sáng tạo, gắn liền với mọi cung bậc cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố của con người - điều mà máy móc không thể làm được. Nói như vậy không có nghĩa là các nghệ sĩ - nguồn nhân lực của sân khấu Việt Nam tách mình khỏi cuộc cách mạng công nghệ mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn đến sự bùng nổ hàng loạt công nghệ mới (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật, công nghệ điện toán đám mây, thực tế ảo, thực tế tăng cường, thực tế hỗn hợp, 3D Mapping, Hologram, Holo Gauze, Virtual Human, Laser mapping, Led Matrix, Kinetic, Digital water curtain, Drone Light, Robot Bolt…) với tốc độ thay đổi chóng mặt, đòi hỏi sân khấu, để có sức cạnh tranh, trong quá trình sáng tạo, phải biết tiếp nhận, ứng dụng công nghệ 4.0 để tạo nên sự đổi mới, đột phá về mặt hình thức. Tuy nhiên, trên thực tế, các nghệ sĩ Việt Nam có tài năng nghệ thuật, nhưng thiếu am hiểu về công nghệ 4.0. Đội ngũ kỹ thuật viên đang làm việc tại các đoàn, nhà hát chưa được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn để có đủ khả năng nắm bắt, am hiểu và làm chủ công nghệ 4.0. Các chuyên gia được đào tạo bài bản về công nghệ 4.0 lại từ chối về các đoàn, nhà hát công tác vì mức lương quá thấp, không đảm bảo chi tiêu đời sống hằng ngày.

Bên cạnh đó, công nghệ 4.0 làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội mới với sự gia tăng những mâu thuẫn, xung đột mới như sự phát triển của công nghệ thúc đẩy vai trò cá nhân, cô lập cá nhân với các mối quan hệ xã hội, làm suy giảm một số giá trị đạo đức của con người; sự phân hóa giàu nghèo giữa những người lao động có tay nghề cao với những người lao động có tay nghề thấp; tình trạng thất nghiệp gia tăng đối với lao động trình độ thấp khi bị robot, máy móc tự động thay thế; nguy cơ xâm phạm đời tư, an ninh mạng... Trong khi đó, nghệ thuật sân khấu là hình thái ý thức xã hội, phản ánh chân thực cuộc sống và tâm hồn con người nên nó mang trong mình bản chất người, bản chất xã hội. Để bắt kịp với sự phát triển của thời đại công nghệ 4.0, các nghệ sĩ phải nắm bắt, phản ánh nhanh nhạy những vấn đề xã hội mới, mang tư tưởng của thời đại, sao cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của khán giả mới. Rất tiếc, sân khấu Việt Nam hiện nay phần lớn đều đi vào dàn dựng những kịch bản cũ, câu chuyện cũ, vấn đề cũ, chưa giám sát với hơi thở của thời đại, khiến nhiều khán giả quay lưng vì không tìm thấy chính mình trong đó.

Sự phát triển của công nghệ 4.0 còn thúc đẩy liên kết liên văn hóa giữa các quốc gia, giúp các nghệ sĩ gia tăng hiểu biết, tương tác với các nền nghệ thuật sân khấu khác trên thế giới. Tuy nhiên, chúng lại làm gia tăng mạnh hơn nữa nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đặt các nghệ sĩ đứng trước thách thức bảo tồn di sản nghệ thuật sân khấu truyền thống. Làm thế nào giải quyết được hài hòa mối quan hệ giữa cái nội sinh với cái ngoại sinh là điều không đơn giản đối với các nghệ sĩ sân khấu truyền thống. Bởi lẽ, nếu tiếp nhận cái ngoại sinh không cẩn trọng, sẽ làm di sản sân khấu truyền thống của dân tộc bị mai một, biến tướng; ngược lại, nếu chỉ lo bảo tồn di sản, không phát huy giá trị của di sản cho phù hợp với xã hội đương đại, thì di sản khó tồn tại bền vững. Chưa kể cái nội sinh phải được bảo vệ giữ gìn đảm bảo trước và người nghệ sĩ phải am hiểu vững bản chất của cái nội sinh thì mới có thể tiếp nhận cái ngoại sinh một cách chủ động, có chọn lọc, được nội sinh hóa, để làm giàu có bản sắc văn hóa dân tộc. Hiện nay, sân khấu truyền thống Việt Nam chưa giải quyết được hài hòa mối quan hệ giữa cái nội sinh với cái ngoại sinh, dẫn đến nhiều giá trị bị mất, mai một trầm trọng, chịu tổn thương trong bối cảnh hội nhập quốc tế, công nghệ số.

Những ưu thế của công nghệ 4.0 còn khiến không ít người làm sân khấu, nếu không làm chủ được bản thân, sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng công nghệ hoặc lợi dụng công nghệ. Việc lạm dụng công nghệ thể hiện ở chỗ: dàn dựng các chương trình, tiết mục, vở diễn chỉ chú trọng đến phô trương ứng dụng của công nghệ để thu hút sự chú ý của khán giả bởi sự độc đáo, mới lạ, mãn nhãn, nhưng lại coi nhẹ hoặc bỏ quên đi giá trị đích thực của nội dung tác phẩm và giá trị tinh túy của các thể loại nghệ thuật sân khấu. Việc lợi dụng công nghệ thể hiện ở chỗ: dùng công nghệ để sáng tạo nghệ thuật thay cho mình. Công nghệ dù ưu việt, hiện đại đến mấy thì cũng không thể cảm nhận như con người, không thể sáng tạo tác phẩm nghệ thuật với chiều sâu cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố cùng những rung cảm mà nghệ sĩ thật đem lại. Chưa kể công nghệ sáng tạo sẽ không thể có được những phong cách độc đáo, đầy ngẫu hứng, thậm chí phá cách mà chỉ ở cá nhân nghệ sĩ tài năng mới có được. Hiện nay, công nghệ 4.0 còn chưa được ứng dụng nhiều ở sân khấu Việt Nam và công nghệ LED được sử dụng là phổ biến, thậm chí đôi khi bị lạm dụng, khiến khán giả chú ý xem hình ảnh ở màn hình LED hơn là xem nghệ sĩ biểu diễn, chưa kể đôi khi hình ảnh hiển thị không tạo hiệu quả nghệ thuật như mong muốn, tách khỏi chủ đề tư tưởng của vở, thậm chí khập khiễng, phá vỡ giá trị tinh túy của nghệ thuật truyền thống.

Cuối cùng, ứng dụng công nghệ 4.0 đòi hỏi chi phí cao có thể coi là thách thức lớn nhất đối với nghệ thuật biểu diễn Việt Nam nói chung và nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói riêng. Trên thực tế, việc ứng dụng thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR), AI trình diễn, ánh sáng thông minh… đòi hỏi hệ thống phần cứng, phần mềm và đội ngũ vận hành chuyên biệt vô cùng tốn kém. Chưa kể công nghệ phát triển nhanh làm những thiết bị mua hôm nay có thể lỗi thời chỉ sau vài năm, thường xuyên phải bỏ phí bảo trì và nâng cấp, khiến các đơn vị nghệ thuật phải duy trì chất lượng chương trình biểu diễn không chỉ là mua công nghệ, mà còn là “nuôi” công nghệ. Trong khi đó, các đơn vị nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam, nhất là sân khấu truyền thống, thường phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, doanh thu thấp, rất khó để đầu tư mạnh tay vào công nghệ cũng như thuê các chuyên gia vận hành công nghệ.

Rõ ràng, hiện nay, nghệ thuật biểu diễn Việt Nam nói chung và sân khấu Việt Nam nói riêng còn nhiều khó khăn, thách thức trong việc ứng dụng công nghệ 4.0. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức hấp dẫn của nghệ thuật sân khấu, trước mắt, có một số vấn đề cần chú ý sau:

Một là, cần nâng cấp cơ sở vật chất các rạp hát, nhà hát hiện đại, có bổ sung công nghệ 4.0, phù hợp với sự phát triển của xã hội và đáp ứng yêu cầu của khán giả đương đại. Sự nâng cấp này phải mang tính hệ thống, đồng bộ, hiệu quả.

Hai là, đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động, quảng bá tác phẩm và nghệ sĩ, xây dựng thương hiệu tại các đơn vị nghệ thuật gắn với công nghệ 4.0 để thu hút đông đảo khán giả mua vé xem vở diễn một cách nhanh nhất, phổ rộng nhất, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.

Ba là, tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về công nghệ 4.0 cho đội ngũ nghệ sĩ và đặc biệt là đội ngũ kĩ thuật viên tại các đơn vị nghệ thuật để họ được trang bị về kiến thức, chuyên môn về công nghệ, từ đó, có khả năng sáng tạo và làm chủ công nghệ trong sản xuất tác phẩm nghệ thuật.

Bốn là, các nghệ sĩ cần phản ánh hiện thực và các vấn đề xã hội bám sát hơi thở của cuộc sống đương đại đang chịu nhiều tác động mạnh mẽ của công nghệ 4.0 và nâng cao ý thức bảo vệ nghệ thuật sân khấu truyền thống trước xu hướng quốc tế hóa văn hóa gia tăng.

Năm là, các nghệ sĩ khi sử dụng công nghệ 4.0, phải biết điều tiết hợp lý, biến công nghệ 4.0 trở thành yếu tố kỹ thuật hữu hiệu để hiện thực hóa, làm thăng hoa mọi ý tưởng sáng tạo, giúp nghệ sĩ làm nên những tác phẩm có giá trị.

Sáu là, trong điều kiện thiếu kinh phí để mua hay thuê công nghệ 4.0 (kèm theo chi phí thuê chuyên gia kĩ thuật vận hành), Chính phủ chưa có chính sách hỗ trợ, ưu đãi phù hợp, thì các đơn vị nghệ thuật cần chủ động tìm kiếm cơ hội liên kết với các doanh nghiệp sản xuất công nghệ, hợp tác giữa hai bên cùng có lợi: một bên có công nghệ và tài chính, cần nghệ sĩ thử nghiệm miễn phí hiệu quả ứng dụng công nghệ; một bên hạn chế về tài chính nhưng cần công nghệ để sáng tạo nghệ thuật.

Sân khấu Việt Nam đang đứng trước kỷ nguyên mới của sự phát triển và sự phát triển ấy trong làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 phụ thuộc vào sự năng động, đổi mới tư duy của các nghệ sĩ và các nhà quản lý. Sự kết hợp giữa nghệ thuật và công nghệ không chỉ thúc đẩy sáng tạo mà còn tạo động lực mạnh mẽ để sân khấu Việt Nam chuyển mình, bắt kịp thời đại số và khẳng định vị thế trên bản đồ văn hóa thế giới.

_______________________

Tài liệu tham khảo

1. Bộ VHTTDL, Tác động của CMCN 4.0 vào lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 11-9-2019.

2. Klaus Schwab, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018.

Ngày Tòa soạn nhận bài: 16-8-2025; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 20-9-2025; Ngày duyệt đăng: 30-9-2025.

TS TRẦN THỊ MINH THU

Nguồn: Tạp chí VHNT số 621, tháng 10-2025

;