Vai trò của Tết mồng 3 tháng 3 trong xã hội người Tày, Nùng, Choang ở vùng biên giới Việt - Trung

Tóm tắt: Tết mồng 3 tháng 3 là một sự kiện văn hóa quan trọng của một số cộng đồng tộc người cư trú ở hai bờ biên giới Việt - Trung như Tày, Nùng (Lạng Sơn) và Choang (Quảng Tây). Tết mồng 3 tháng 3 phản ánh nguồn gốc lịch sử và nhiều khía cạnh quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng sở tại. Bài viết này tập trung khám phá vai trò của Tết mồng 3 tháng 3 trong đời sống đương đại của các cộng đồng Tày, Nùng và Choang vùng biên giới Việt - Trung. Bên cạnh việc chỉ ra những giá trị và vai trò của Tết mồng 3 tháng 3 đối với cộng đồng, bài viết còn đề cập các giải pháp bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Từ khóa: Tày, Nùng, Choang, Tết mồng 3 tháng 3.

Abstract: The Double Third Festival (celebrated on the 3rd day of the 3rd lunar month) is an important cultural event for several ethnic communities living along the Vietnam - China border, such as the Tay and Nung in Lang Son, Vietnam, and the Zhuang in Guangxi, China. This festival reflects the historical origins and many significant aspects of the spiritual and cultural life of these local communities. This article focuses on exploring the role of the Double Third Festival in the contemporary lives of the Tay, Nung, and Zhuang communities along the Vietnam - China border. In addition to highlighting the values and roles of the festival within these communities, the article also discusses solutions for preserving and promoting ethnic identity in the current context of building new rural areas.

Keywords: Tay, Nung, Zhuang, "the March 3rd Tet festival".

1. Giới thiệu

Đối với người Choang ở Quảng Tây, Tết mồng 3 tháng 3 (còn gọi là Tâm Nguyệt Tâm hoặc Lễ ca tiên) là dịp thờ cúng tổ tiên, kết hợp ca hát, nhảy múa. Năm 2014, nó chính thức trở thành ngày lễ được Chính phủ Trung Quốc công nhận ở Quảng Tây với hai ngày nghỉ. Với người Tày, Nùng ở Việt Nam và Trung Quốc đây cũng là ngày giỗ tổ chung (Tết So slam/ Bươn slam), gắn liền với hoạt động tảo mộ, sửa sang mộ phần để tưởng nhớ người đã khuất. Dù trải qua nhiều thay đổi, Tết mồng 3 tháng 3 vẫn được bảo tồn như một lễ hội tổng hợp, kết hợp yếu tố văn hóa, tín ngưỡng và giao lưu xã hội, thể hiện bản sắc riêng của các dân tộc vùng biên giới Việt - Trung. Trong xã hội hiện đại, ngày Tết này không chỉ thể hiện nhu cầu tín ngưỡng mà còn là dịp gắn kết cộng đồng, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.

2. Vài nét về các dân tộc Tày, Nùng, Choang

Người Tày, Nùng ở Lạng Sơn, Việt Nam

Người Tày và người Nùng là hai dân tộc có quan hệ gần gũi, cùng thuộc ngữ hệ Tai - Kadai, sống tập trung ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Tày có khoảng 1,8 triệu người (1), đông nhất ở Lạng Sơn, còn người Nùng phân bố rải rác ở các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng. Một số tác giả Việt Nam cho rằng “người Tày và Nùng là những cư dân có chung một nguồn gốc lịch sử, cùng thuộc khối Bách Việt xưa kia, có những đặc điểm sinh hoạt - văn hóa và ngôn ngữ gần gũi nhau” (2). Hai nhóm này có quan hệ gần gũi về nguồn gốc, văn hóa và ngôn ngữ, thường được nghiên cứu chung. Cả hai tộc người có nền văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời, kết hợp với nghề thủ công, chăn nuôi và hái lượm. Về tín ngưỡng, người Tày - Nùng theo thuyết vạn vật hữu linh, chịu ảnh hưởng của Tam giáo, với các nghi lễ do thày Tào, Mo, Then thực hiện.

Người Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc

Dân tộc Choang hay bố Choang là tự xưng của dân tộc Choang. Với dân số 19.568.546 (năm 2021), với hơn 20 tên gọi khác nhau, người Choang phân bố ở nhiều tỉnh của Trung Quốc, nhưng chủ yếu tập trung tại Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây và tỉnh Vân Nam. Ngoài Trung Quốc ra, người Choang còn cư trú ở Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan, Âu - Mỹ. Tiếng Choang thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, nhóm ngôn ngữ Choang - Động, chi tiếng Choang - Thái. Người Choang là tộc người biết canh tác và trồng lúa rất sớm, với nghề trồng lúa nước tương đối phát triển.

Để lấy tư liệu cho bài viết này, tác giả đã đi thực địa ở thôn Cựu Châu, thị trấn Cựu Châu, thành phố (cấp huyện) Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc; thôn Chợ Bãi 1, xã Yêu Phúc, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam; thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.

3. Vai trò của Tết mồng 3 tháng 3

Cầu phúc, tránh tai họa

Với các cộng đồng sở tại, Tết mồng 3 tháng 3 trước hết mang ý nghĩa cầu phúc, tránh tai ương. “Tại nghĩa trang, mọi người bày tỏ lòng thành kính sâu sắc với tổ tiên, sau khi báo cáo tình hình với tổ tiên, họ “truyền đạt tâm tư” của mình, cầu mong tổ tiên phù hộ cho gia đình có cuộc sống hạnh phúc, bình an, cầu mong con cháu thành đạt trong sự nghiệp, học hành, cầu mong tổ tiên phù hộ cho đàn gia súc được thịnh vượng, mùa màng bội thu. Tóm lại, mọi người hy vọng tổ tiên có thể phù hộ để mọi việc diễn ra tốt đẹp trong năm tới và tránh xa mọi tai ương (3). Có thể thấy rằng tổ tiên đã trở thành “đấng bảo hộ” của cộng đồng Tày, Nùng và Choang, giúp cộng đồng đối mặt với những bất ổn trong cuộc sống, tạo ra vòng tròn tương hỗ trong đời sống cộng đồng. Từ đời sống vật chất đến tinh thần, nghi lễ tảo mộ như một cơ chế tâm linh đa vai trò: cầu phúc nhằm thỏa mãn nhu cầu an sinh, thịnh vượng và tiến bộ cá nhân; tránh họa nhằm giảm bớt lo lắng trước những yếu tố không kiểm soát được.

“Mọi người tin rằng thông qua việc hiến tế có thể nhận được sự bảo vệ của các vị thần, đảm bảo mùa màng diễn ra bình thường, mùa màng bội thu và tránh xa thiên tai, dịch bệnh” (4). Người Choang tin rằng thờ cúng sẽ nhận lại sự bảo trợ siêu nhiên, thể hiện quan niệm “có vay có trả” trong mối quan hệ với thế giới tâm linh. Điều này làm rõ về vai trò của Tết mồng 3 tháng 3 trong việc duy trì trật tự xã hội và thế giới quan truyền thống của người Choang.

Qua ghi chép điền dã tại thôn Cựu Châu, chị Lý Khiết chia sẻ: “Với những người con xa quê như chúng tôi, Tết âm lịch có thể không về quê được, nhưng không thể vắng mặt trong ngày tảo mộ” (5). Điều này phản ánh quan niệm phổ biến trong cộng đồng - việc thăm viếng, chăm sóc mộ phần tổ tiên là trách nhiệm bất di bất dịch. Người Choang tin rằng nghi lễ tảo mộ mang ý nghĩa kép: vừa thể hiện lòng hiếu thảo, vừa cầu xin phúc lành. Các hoạt động chính bao gồm: dọn dẹp, tu sửa mộ phần, đốt vàng mã (tiền, vật dụng giấy) như vật phẩm cung tiến, khấn vái cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu bình an, thịnh vượng. Nghi lễ này không chỉ là hành động tưởng nhớ mà còn thể hiện niềm tin vào sự giao thoa giữa thế giới hữu hình và vô hình, nơi tổ tiên vẫn luôn đồng hành, che chở cho thế hệ sau.

Trong nghi lễ quan trọng đầu năm, người Tày, Nùng thường báo cáo với tổ tiên về tình hình gia đình và cầu xin phù hộ. Như lời ông Hoàng Văn Hiến (thôn Sơn Hồng) khấn: “Năm qua gặp hạn hán mất mùa, mong tổ tiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, gia súc khỏe mạnh, làm ăn khấm khá” (6). Bà Mong Thị Dung thì cầu nguyện cho cháu nội sắp tốt nghiệp học hành thành đạt (7). Nghi lễ này thể hiện rõ mong ước về cuộc sống ấm no (mùa màng tươi tốt, thoát nghèo), nhu cầu bình an (tránh thiên tai, dịch bệnh) và niềm tin vào sự phù hộ của tổ tiên. Đây không chỉ là nghi thức tâm linh mà còn là cách người Tày, Nùng gửi gắm những ước vọng thiết thực nhất về cuộc sống gia đình. Tương tự, trong nghi lễ cúng tổ tiên của người Tày, Nùng, họ thường “báo cáo” chi tiết với tổ tiên về cuộc sống gia đình trong năm qua. Cách thức này thể hiện rõ quan niệm tổ tiên vẫn luôn hiện diện và đồng hành cùng con cháu. Qua những câu chuyện trên, ta thấy rõ đây không chỉ là hành vi tín ngưỡng mà còn là cơ chế tâm lý giúp cộng đồng vượt qua thách thức, duy trì sự gắn kết giữa các thế hệ.

Giáo dục truyền thống

Nghi lễ tảo mộ của người Tày, Nùng và Choang không chỉ là hoạt động tín ngưỡng mà còn đóng vai trò như một phương thức giáo dục truyền thống hiệu quả. Theo tác giả Nguyễn Thị Yên: “các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của Tày, Nùng đều quy tụ những phong tục tập quán riêng của cộng đồng: ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng...” (8). Nghi lễ này tích hợp những phong tục tập quán đặc trưng, phản ánh mối quan hệ gia đình và dòng họ. Khi thực hành tảo mộ, các gia đình tiến hành dọn dẹp, tu sửa mộ phần và chuẩn bị lễ vật đặc trưng của tộc người. Quan trọng hơn, đây là dịp để các bậc cao niên kể lại cho thế hệ trẻ về công lao của tổ tiên, giúp họ thấu hiểu những khó khăn trong quá khứ và biết ơn những đóng góp của tiền nhân. Nghi lễ này thực hiện hai chức năng chính: duy trì ký ức cộng đồng thông qua gìn giữ lịch sử gia tộc thông qua những câu chuyện kể; giáo dục đạo đức qua truyền dạy đạo lý “uống nước nhớ nguồn” (9). Như một không gian liên thế hệ, nghi lễ tảo mộ tạo điều kiện để người già và trẻ nhỏ cùng tham gia, qua đó văn hóa tộc người được bảo tồn và phát huy một cách tự nhiên. Điều này không chỉ củng cố sự gắn kết gia đình mà còn khẳng định giá trị bền vững của truyền thống hiếu đạo trong xã hội hiện đại.

Người Choang thường cúng xôi ngũ sắc và gia cầm, trong khi người Tày, Nùng dùng thịt lợn quay, gà, xôi màu, bánh ngải... Dù khác biệt lễ vật, điểm chung là tưởng nhớ tổ tiên, đề cao chữ hiếu. Nghi lễ tảo mộ trở thành bài học trực quan về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, giúp thế hệ trẻ gắn bó với gia tộc. Dù cuộc sống bận rộn, người Tày, Nùng và Choang vẫn ưu tiên về quê vào Tết mồng 3 tháng 3 để cúng tổ tiên, thể hiện quan niệm gắn kết giữa người sống và người đã khuất. Khác với nhiều dân tộc giỗ riêng từng người, họ coi đây là dịp cả gia tộc cùng bày tỏ lòng thành. Tin vào “vạn vật hữu linh”, họ cho rằng tổ tiên vẫn cần được cung cấp đồ ăn, vật dụng. Nghi lễ này không chỉ là hành vi tâm linh mà còn gìn giữ đạo đức gia đình và bản sắc văn hóa. Nghi lễ tảo mộ của các dân tộc Tày, Nùng và Choang đóng vai trò quan trọng trong giáo dục truyền thống. Ở người Choang, các bậc cao niên thường tận dụng dịp này để truyền dạy lịch sử gia tộc và giá trị văn hóa thông qua kể chuyện và thực hành nhuộm xôi ngũ sắc. Trong khi đó, người Tày, Nùng chú trọng giáo dục thông qua các nghi thức thực hành như dọn mộ, đặt hoa và đốt vàng mã. Nghi lễ này còn là dịp để giáo dục các chuẩn mực trong ứng xử, qua đó củng cố các giá trị: lòng hiếu thảo và biết ơn tổ tiên; ý thức trách nhiệm với gia tộc; sự tôn trọng truyền thống và kỷ cương.

Như chia sẻ của ông Hoàng Hồng Đức tại Lạng Sơn cho biết: “Tảo mộ là dịp dạy con cháu đạo lý uống nước nhớ nguồn” (10). Qua đó, nghi lễ tạo nên không gian ký ức tập thể, kết nối các thế hệ và bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người.

Bảo tồn văn hóa

Nghi lễ tảo mộ trong dịp Tết mồng 3 tháng 3 đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa của người Tày, Nùng và Choang. Theo Hoàng Nhuận Bách: “Lễ hội truyền thống của dân tộc Choang là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa phi vật chất như tín ngưỡng, đạo đức, quan niệm thẩm mỹ...” (11). Lễ hội này không chỉ là không gian tín ngưỡng mà còn lưu giữ các giá trị đạo đức, thẩm mỹ và tri thức dân gian. Đối với người Choang ở Quảng Tây, dịp này là cơ hội để: tổ chức các hoạt động văn hóa (hát dân ca, ném tú cầu); bảo tồn nghệ thuật ẩm thực (xôi ngũ sắc); truyền dạy ngôn ngữ dân tộc thông qua các cuộc thi hát. Đặc biệt, các cuộc thi hát dân ca của làng không chỉ là hoạt động giải trí mà còn giúp thế hệ trẻ học hỏi tiếng mẹ đẻ và văn hóa truyền thống. Hiện nay, nhiều trường học đã đưa các hoạt động này vào chương trình để gìn giữ di sản đang dần mai một. Như vậy, Tết mồng 3 tháng 3 thực sự là cơ chế quan trọng để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

 “Các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng của Tày, Nùng đã góp phần quan trọng hình thành nên phong tục tập quán của họ” (12). Tác giả khẳng định rằng các hoạt động tín ngưỡng không chỉ là biểu hiện tâm linh mà còn đóng vai trò định hình văn hóa truyền thống của người Tày, Nùng. Tín ngưỡng được xem như một yếu tố nền tảng, góp phần hình thành và duy trì các phong tục, tập quán đặc trưng của cộng đồng này. Đối với người Tày, Nùng, hệ thống tri thức dân gian về nghi thức cúng bái được trao truyền giữa các thế hệ. Kỹ thuật chế biến các món ăn đặc trưng (bánh ngải, thịt lợn quay, xôi màu) cũng được bảo tồn, truyền dạy trong sự kiện này. Nghiên cứu tại thôn Sơn Hồng ghi nhận hơn 80% hộ gia đình vẫn giữ nguyên công thức nấu các món truyền thống trong dịp này. Tóm lại, Tết mồng 3 tháng 3 thể hiện rõ ba cấp độ bảo tồn văn hóa: Bảo tồn văn hóa vật thể: trang phục, dụng cụ lễ nghi, kiến trúc mộ phần; Bảo tồn văn hóa phi vật thể: nghi thức, tri thức dân gian, nghệ thuật biểu diễn; Bảo tồn không gian văn hóa: khu vực tảo mộ, không gian cộng đồng.

Dựa trên kết quả nghiên cứu của bài viết, có thể đề xuất các phương pháp bảo tồn Tết mồng 3 tháng 3 của người Tày, Nùng, Choang ở vùng biên giới Việt - Trung như sau:

Thứ nhất, bảo tồn di sản thông qua giáo dục và truyền thông: đưa Tết mồng 3 tháng 3 vào chương trình giáo dục địa phương trong các trường học ở Lạng Sơn (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc); sản xuất phim tài liệu, viết các bài báo, chương trình truyền hình để quảng bá rộng rãi văn hóa Tày, Nùng, Choang tại các địa phương mỗi nước.

Thứ hai, kết hợp phát triển du lịch văn hóa: xây dựng tour trải nghiệm kết hợp tham quan làng bản, tham gia nghi lễ tảo mộ, thưởng thức ẩm thực truyền thống; bảo tồn không gian văn hóa: giữ gìn nghĩa trang cổ, khu lễ tết, nhà sàn truyền thống để phục vụ du lịch.

Thứ ba, đẩy mạnh việc số hóa di sản: nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, ghi chép lại các bài khấn, truyền thuyết, bài hát dân gian liên quan đến Tết mồng 3 tháng 3; xây dựng thư viện số, lưu trữ hình ảnh, video, tài liệu về lễ hội để phục vụ nghiên cứu và bảo tồn lâu dài.

Thứ tư, xây dựng môi trường văn hóa ở cộng đồng cơ sở: thành lập các câu lạc bộ văn hóa, khuyến khích người dân tham gia các nhóm bảo tồn văn hóa dân tộc; hỗ trợ kinh phí, tài trợ cho nghệ nhân, thày cúng, người nắm giữ tri thức truyền thống để duy trì nghi lễ.

4. Kết luận

Tảo mộ là phong tục thờ cúng tổ tiên đặc sắc của các dân tộc thiểu số nằm trên biên giới Việt Nam và Trung Quốc, như người Choang ở Quảng Tây (Trung Quốc) và người Tày, Nùng ở Việt Nam. Bài viết đã chỉ ra rằng Tết mồng 3 tháng 3 của người Tày, Nùng và Choang không chỉ là cách cầu phúc, thể hiện lòng tôn kính và tưởng nhớ tổ tiên của các cộng đồng sở tại, mà còn có vai trò giáo dục các chuẩn mực đạo đức cho thế hệ sau, đồng thời, cũng là một cách thực hành để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc. Việc gìn giữ lễ hội này sẽ góp phần củng cố bản sắc văn hóa tộc người trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

_________________

1. Tổng cục Thống kê, Kết quả toàn bộ Tổng điều tra dân số 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2020.

2. Viện Dân tộc học, Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Hà Nội,1992, tr.48.

3. Lý Thái Vân, 中国壮族与越南岱侬族清明文化习俗深析 (Phân tích sâu về phong tục văn hóa Tết Thanh minh của người Choang (Trung Quốc) và người Tày-Nùng (Việt Nam)), Tạp chí Công trình Văn hóa, Giảng dạy Văn hóa và các vấn đề khác, số 9, 2015, tr.178-188.

4, 11. Hoàng Nhuận Bách, 壮族传统节日的社会功能及其变迁研究 -壮族传统节日文化创新研之- (Nghiên cứu chức năng xã hội và sự biến đổi của lễ hội truyền thống dân tộc Choang - Một phần nghiên cứu về đổi mới văn hóa lễ hội truyền thống dân tộc Choang), Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc Quảng Tây, số 6, 2018, tr.128, 128.

5. Phỏng vấn sâu chị Lý Khiết tại thị trấn Cựu Châu, thành phố (cấp huyện) Tĩnh Tây, thành phố Bách Sắc, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.

6. Phỏng vấn sâu ông Hoàng Văn Hiến tại xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, ngày 19-4-2025.

7. Phỏng vấn sâu bà Mong Thị Dung xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, ngày 19-4-2025.

8, 12. Nguyễn Thị Yên, Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr.101, 101.

9. Lê Minh Anh, Mông Thị Quý, Tết Thanh Minh của người Tày ở xã Xuân Lạc, tỉnh Cao Bằng, Tạp chí Bảo tàng & Nhân học, số 3, 2016, tr.57-63.

10. Phỏng vấn sâu Hoàng Hồng Đức tại thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, ngày 19-4-2025.

Tài liệu tham khảo

1. Ngô Đức Thịnh, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.

2. Lý Viết Trường, Phong tục và lễ hội của người Tày, Nùng ở Lạng Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2020.

3. Nguyễn Thị Yên, Một số hình thức tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng Việt Nam và người Choang Trung Quốc, Tạp chí Dân tộc học, số 4, 2010.

4. Đàm Tiêu Hoa, 我国广西壮族与越南岱侬族中元文 化习俗的比较 (So sánh phong tục văn hóa Tết Trung nguyên của người Choang Quảng Tây, Trung Quốc và người Tày-Nùng Việt Nam), Tạp chí Giáo dục Khai Phong, tập 35, số 12, 2015.

5. Đàm Tiêu Hoa, 广西壮族与越南岱侬族三月三扫墓 习俗比较研究 (Nghiên cứu so sánh phong tục Tảo mộ Tam Nguyệt Tam của người Choang Quảng Tây, Trung Quốc và người Tày-Nùng Việt Nam), Tạp chí Đại học Hàm thụ Hồ Bắc, tập 29, số 21, 2016.

Ngày Tòa soạn nhận bài: 20-4-2025; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 15-5-2025; Ngày duyệt đăng: 27-5-2025.

YU TIAN TIAN (Trung Quốc)

Nguồn: Tạp chí VHNT số 608, tháng 6-2025

;