Xuất bản Việt Nam trong sứ mệnh kiến tạo hệ giá trị, gìn giữ nền tảng tư tưởng và bồi đắp văn hóa đọc trong kỷ nguyên mới – nhìn từ Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng với tinh thần đặt văn hóa ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, xác định rõ: văn hóa là nguồn lực nội sinh, là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và hệ điều tiết cho phát triển bền vững quốc gia. Đó là một định hướng lớn, toàn diện, mở ra không gian mới cho các ngành Văn hóa, trong đó xuất bản không chỉ là một lĩnh vực thuộc cấu trúc văn hóa, mà còn là hạ tầng tư tưởng, hạ tầng tri thức và hạ tầng lưu giữ – lan tỏa hệ giá trị của quốc gia.

Trong dòng chảy đó, để đóng góp vào văn kiện với góc nhìn của ngành Xuất bản, In và Phát hành, cần làm nổi bật 3 nội dung trọng yếu: (1) Khẳng định và bổ sung vai trò nòng cốt của xuất bản trong xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, hệ giá trị văn hóa và hệ tri thức quốc gia; (2) Nhấn mạnh định hướng phát triển xuất bản theo trục chuyên nghiệp – nhân văn – hiện đại; (3) Coi phát triển văn hóa đọc là trụ cột căn bản của kiến tạo xã hội học tập, xã hội tri thức, xã hội văn hóa trong kỷ nguyên mới.

Khu vực trưng bày sách của Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ VHTTDL) thu hút đông đảo khách tham quan tại Hội chợ Mùa Thu 2025- Ảnh tư liệu: Ngô Huyền

1. Xuất bản góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng, xây dựng hệ tri thức và kiến tạo giá trị văn hóa của quốc gia

Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa vận mệnh đất nước và sứ mệnh xuất bản. Những ấn phẩm như Đường Cách mệnh, Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, những tờ báo, cuốn sách trong các thời kỳ kháng chiến, kiến quốc, đổi mới… không đơn thuần truyền tải thông tin, mà là vũ khí tư tưởng, ngọn đuốc khai sáng, kim chỉ nam hành động và biểu tượng trí tuệ của cả một dân tộc. Xuất bản chưa bao giờ là hoạt động trung tính. Đó luôn là hoạt động tạo lập, định hình và bảo vệ thế giới quan của một quốc gia.

Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cạnh tranh toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ từ cạnh tranh về kinh tế sang cạnh tranh về sức mạnh mềm, về mô hình phát triển, về diễn ngôn tư tưởng, và sâu hơn là cạnh tranh về quyền lực tri thức, thì xuất bản chính là điểm tựa chiến lược để quốc gia gìn giữ tính tự chủ tư tưởng và chủ quyền tri thức. Một dân tộc mạnh không chỉ biết sản xuất của cải vật chất, mà phải biết sản xuất tư tưởng, sản xuất tri thức, sản xuất giá trị và truyền bá giá trị của mình một cách có sức thuyết phục, góp phần hình thành sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc.

Nghị quyết và Văn kiện đã nêu rõ yêu cầu xây dựng nền báo chí, xuất bản, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược, cần làm rõ hơn nữa rằng: xuất bản không chỉ là một ngành Văn hóa, mà là công cụ nền tảng trong kiến trúc an ninh tư tưởng quốc gia. Trên không gian mạng, một tin sai lệch có thể lan nhanh trong vài giây, nhưng chỉ những giá trị được chiết lọc, xác nhận, thẩm định và xuất bản chuẩn mực mới có thể bền bỉ định hướng nhận thức xã hội. Trong tương quan đó, xuất bản tham dự vào ba trục cốt lõi của kiến tạo nền tảng quốc gia:

Thứ nhất, xuất bản xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và hệ giá trị quốc gia. Không gian tư tưởng của thế hệ trẻ hôm nay phần lớn được định hình không phải từ những điều nghe, được nói, mà từ những gì được đọc – trên giấy và trên nền tảng số. Nếu không chủ động dẫn dắt không gian đó bằng ấn phẩm chất lượng cao, có sức thuyết phục, có hệ lập luận sắc sảo, có định hướng giá trị rõ ràng, chúng ta sẽ đối diện nguy cơ “nhường trận địa tư tưởng” cho các luồng thông tin thiếu kiểm chứng, thiếu chuẩn mực và thiếu thiện ý. Theo đó, xuất bản tích cực góp phần: (1) Xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng và khoa học; (2) Đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch bằng những luận cứ và luận chứng khoa học, thuyết phục. (3) Cung cấp tri thức “lá chắn” cho thanh thiếu niên, xây dựng nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức xã hội.

Thứ hai, xuất bản bảo tồn, mã hóa và truyền tiếp hệ giá trị văn hóa dân tộc. Một giá trị chỉ được bảo tồn bền vững khi nó được ghi chép, được hệ thống hóa, được lưu trữ, được chuyển dịch qua nhiều thế hệ bằng hình thức có tính bền vững và chính danh. Xuất bản là “bộ nhớ dài hạn” của dân tộc. Không một công nghệ truyền thông tức thời nào có thể thay thế vai trò này của xuất bản. Các hệ giá trị mà Dự thảo Văn kiện đề cập – hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, chuẩn mực con người Việt Nam – sẽ không thể “đi vào đời sống” nếu thiếu việc định hình, lan tỏa bằng xuất bản phẩm và thẩm thấu qua văn hóa đọc. Theo đó, Ngành Xuất bản đóng vai trò: Chuẩn hóa văn hóa qua các bộ sách điển tịch, lịch sử, văn học, nghệ thuật. Mã hóa giá trị dân tộc thành nội dung có khả năng truyền tiếp qua thế hệ. Xây dựng kho tri thức mang “Making in Việt Nam” [1] trong bản đồ tri thức toàn cầu.

Thứ ba, xuất bản tạo lập hệ tri thức quốc gia – nguồn sống của xã hội học tập và xã hội số. Không có chuyển đổi số nếu không có dữ liệu số; không có dữ liệu số nếu không có nguồn tài nguyên nội dung chuẩn; và không có nội dung chuẩn nếu không xuất phát từ hệ thống xuất bản được thẩm định, chọn lọc, biên tập và chuẩn hóa. Do đó, mọi chiến lược phát triển AI tiếng Việt, dữ liệu lớn của Việt Nam, thư viện số, học liệu số, nền tảng số quốc gia đều phải bắt đầu từ hạ tầng nội dung của ngành xuất bản.

2. Phát triển xuất bản theo định hướng: chuyên nghiệp – nhân văn – hiện đại

Văn kiện đã đã cập đến định hướng quan trọng, đó là xây dựng nền xuất bản chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại. Đây đều là những thuộc tính và yêu cầu cốt lõi cho sự phát triển của xuất bản. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần hiểu tính chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại với nội hàm mới.

Nếu trước đây, xuất bản được hiểu trước hết là công việc in ấn và phát hành sách, thì trong kỷ nguyên số, xuất bản được hiểu lại như kiến trúc sư của hệ tri thức quốc gia, người thiết kế không gian đọc và người kiến tạo giá trị tinh thần. Do đó, chiến lược phát triển ngành không chỉ gắn với sản phẩm, mà gắn với hệ sinh thái, mô hình vận hành, năng lực cạnh tranh và tầm ảnh hưởng quốc gia. Tính chuyên nghiệp của xuất bản ngày nay nằm ở năng lực chuẩn hóa các dòng chảy tri thức. Chuyên nghiệp không chỉ là biên tập đúng chính tả, đúng ngữ pháp, mà là: Khả năng thẩm định nội dung theo chuẩn chuyên môn cao nhất; Khả năng phản biện học thuật và phản biện chính sách qua xuất bản; Khả năng phát hiện và định vị được các dòng tư tưởng mới, những nguồn tri thức có giá trị lâu dài; Khả năng xây dựng đội ngũ biên tập viên vừa vững bản lĩnh chính trị, vừa có tư duy tinh hoa học thuật, vừa có năng lực dẫn dắt diễn ngôn xã hội; Khả năng đưa xuất bản Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi tri thức toàn cầu, từ dịch thuật, chuyển nhượng bản quyền đến hợp tác học thuật và phát hành quốc tế.

Tính nhân văn của xuất bản là bản chất bất biến của ngành này, nhưng trong bối cảnh kinh tế thị trường và cạnh tranh nội dung số, tính nhân văn càng phải được khẳng định rõ ràng hơn. Nhân văn của xuất bản không chỉ là nội dung hướng thiện, mà còn là: Không bỏ quên những không gian đọc thiểu số, vùng xa, nhóm yếu thế; Không để tri thức bị độc quyền hóa bởi mục tiêu lợi nhuận cực đại; Giữ vững ranh giới giữa tự do sáng tạo và trách nhiệm xã hội; Nuôi dưỡng lý tưởng, nhân cách, lòng yêu nước, tinh thần tương trợ và tự tôn dân tộc; Để sách không chỉ là sản phẩm thương mại mà là công cụ nuôi dưỡng phẩm chất con người.

Tính hiện đại của xuất bản không chỉ gói gọn trong số hóa. Hiện đại nghĩa là chuyển từ tư duy “làm sách” sang tư duy “làm nền tảng tri thức”. Đó là: Chuẩn hóa nội dung theo cấu trúc dữ liệu để có thể sử dụng trong môi trường AI, học máy và hệ thống gợi ý tri thức; Chuyển mô hình từ xuất bản truyền thống sang xuất bản đa nền tảng, đa phương tiện; Đầu tư cho hạ tầng bản quyền số, nhận diện số (DOI, ISBN chuẩn quốc tế), khai thác nội dung dạng mô-đun phục vụ giáo dục và sáng tạo nội dung; Xây dựng kho dữ liệu nội dung tiếng Việt đủ lớn, đủ chuẩn, đủ sạch để trở thành “nguồn gốc dữ liệu huấn luyện” cho AI Việt Nam, tránh phụ thuộc dữ liệu ngoại nhập. Trong thời đại AI tạo sinh, quốc gia nào không làm chủ nguồn dữ liệu tri thức của mình sẽ đánh mất quyền chủ động trong tương lai. Và nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhất của quốc gia chính là nguồn dữ liệu xuất bản.

3. Văn hóa đọc – trụ cột của văn hóa và động lực của phát triển

Văn kiện đã đề cập phát triển văn hóa toàn diện; tuy nhiên, với sứ mệnh chiến lược của mình, ngành Xuất bản trân trọng kiến nghị cần xác định rõ hơn rằng: văn hóa đọc là một trụ cột độc lập của văn hóa, là tiền đề của mọi văn hóa nhận thức và văn hóa ứng xử trong xã hội tri thức.

Một xã hội mạnh không phải chỉ là một xã hội có người biết chữ, mà phải là xã hội có thói quen đọc, có năng lực đọc, có phương pháp đọc phản biện và có hạ tầng đọc bền vững. Trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin và hỗn loạn thông tin, kỹ năng quan trọng nhất không phải là “tiếp cận được thông tin” mà là “sàng lọc, thẩm định, phản biện và chuyển hóa thông tin thành tri thức hữu ích”. Và kỹ năng đó chỉ được hình thành trong môi trường đọc sâu và đọc tích lũy.

Văn hóa đọc cần được tiếp cận mới: Không chỉ đọc chữ mà đọc đa thức: đọc sách in, sách điện tử, sách nói, ấn phẩm đa phương tiện, nội dung tương tác; Không chỉ đọc cá nhân mà đọc cộng đồng: câu lạc bộ đọc, diễn đàn đọc, mạng lưới truyền cảm hứng đọc; Không chỉ đọc thụ động mà đọc kiến tạo: đọc để phản biện, để viết lại, để sáng tạo, để đề xuất chính sách, để kiến tạo tri thức mới; Không chỉ đọc giải trí mà đọc chiến lược: đọc để nuôi năng lực cạnh tranh quốc gia, nuôi tư duy đổi mới, nuôi tinh thần khai phóng.

Muốn phát triển văn hóa đọc, cần chuyển từ lời kêu gọi sang đầu tư hạ tầng và thể chế, trong đó cần xác định rõ một số nhiệm vụ trọng tâm như: Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa đọc và tri thức số. Đưa chỉ số đọc trở thành một chỉ báo trong bộ chỉ số phát triển con người và phát triển địa phương. Mỗi trường học phải trở thành không gian đọc chuẩn, không chỉ là nơi “học chương trình” mà là nơi “học năng lực đọc và tư duy”. Mỗi địa phương phải có hệ mạng thư viện liên kết, có sách mới, có sách số, có sách nói, thay vì thư viện chỉ là nơi lưu trữ sách cũ. Mỗi gia đình được khuyến khích hình thành tủ sách gia đình, coi đó là một tiêu chí văn hóa. Nhà nước cần đầu tư dài hạn cho quỹ bản quyền quốc gia, giúp mua bản quyền, dịch thuật và phổ cập tri thức tinh hoa thế giới đến công chúng.

4. Kết luận

Trong dòng chảy mới của thế giới, quốc gia nào nắm quyền quyết định hệ tri thức, quốc gia đó làm chủ tương lai. Muốn văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh đúng như tinh thần dự thảo Văn kiện, trước hết phải bảo đảm ba trụ đỡ: Có nền tảng tư tưởng vững vàng và theo đó, cần xuất bản làm lá chắn và kênh dẫn. Có hệ tri thức độc lập, chuẩn xác, giàu bản sắc, và theo đó cần xuất bản làm nguồn dữ liệu gốc. Có công chúng biết đọc, biết chọn, biết phản biện, và theo đó cần văn hóa đọc làm động lực. Vì vậy, đầu tư cho xuất bản và cho văn hóa đọc không phải đầu tư tiêu dùng, mà là đầu tư tiếp sức cho nội lực dân tộc, đầu tư vào tương lai dài hạn nhất – tương lai của trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và giá trị Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

____________________

1. Making in Vietnam nghĩa là: Sản phẩm do người Việt Nam làm chủ từ tư duy, thiết kế đến giá trị cốt lõi; giải quyết bài toán của Việt Nam và vươn ra toàn cầu.

 

NGUYỄN NGUYÊN

Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành

ĐỌC NHIỀU

  • [Infographic] Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025- 2030

    Từ 12-13/10: Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030

  • Truyền thông tương tác - xu thế chủ đạo trong hoạt động truyền thông hiện nay

    Truyền thông tương tác - xu thế chủ đạo trong hoạt động truyền thông hiện nay

  • Sự chuyển biến vị thế và hoạt động báo chí, xuất bản của phụ nữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX

    Sự chuyển biến vị thế và hoạt động báo chí, xuất bản của phụ nữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX

  • Tối 9-8 diễn ra V Concert - Rạng rỡ Việt Nam: Đại nhạc hội kết nối tinh hoa văn hóa, tỏa sáng tinh thần dân tộc

    Tối 9-8: V Concert - Rạng rỡ Việt Nam

  • Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam và nỗ lực đột phá trong xây dựng công nghiệp văn hóa - Bài 1: “Thổi hồn” truyền thống vào nghệ thuật biểu diễn đương đại

    Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam và nỗ lực đột phá trong xây dựng công nghiệp văn hóa - Bài 1: “Thổi hồn” truyền thống vào nghệ thuật biểu diễn đương đại

  • ;