Đặc sắc nghề làm giấy bản truyền thống của người Nùng tỉnh Cao Bằng

Giữa non nước Cao Bằng hùng vĩ, làng Dìa Trên (xã Quảng Uyên) vẫn lưu giữ một nghề truyền thống đặc sắc – nghề làm giấy bản của người Nùng. Nghề làm giấy bản được làm hoàn toàn từ chất liệu thiên nhiên: vỏ cây Mạy Kha và Khởi Áo không chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà còn trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút du khách, đem lại thu nhập cho bà con vùng đất này.

Tại không gian Hội chợ mùa Thu lần thứ I – năm 2025, chị Nông Thị Kính, người đã gắn bó hơn 36 năm với nghề làm giấy bản truyền thống, đã mang đến cho du khách những trải nghiệm độc đáo, thể hiện nét tinh hoa và giá trị bền vững của nghề thủ công lâu đời. Chị không chỉ là người giữ lửa cho di sản văn hóa của dân tộc Nùng, mà còn là minh chứng sống động cho sức sống bền bỉ của nghề truyền thống giữa thời hiện đại.

Chị Nông Thị Kính - người Nùng làng Dìa Trên, xã Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng

Với sự đồng hành của Công viên Địa chất toàn cầu non nước Cao Bằng và ngành Văn hóa địa phương, từ nghề làm giấy được truyền qua nhiều thế hệ trong gia đình, chị Kính cùng các nghệ nhân xã Quảng Uyên đã thổi hơi thở mới của thời đại vào từng sản phẩm. Từ những tờ giấy bản mộc mạc, họ sáng tạo nên đồ thủ công, tranh thư pháp, quà lưu niệm mang đậm bản sắc, góp phần đưa nghề cổ truyền trở thành điểm nhấn hấp dẫn trong hành trình du lịch cộng đồng.

Chia sẻ về quy trình làm ra những tờ giấy bản truyền thống, chị Nông Thị Kính cho biết: Để làm ra sản phẩm, chúng tôi hoàn toàn sử dụng vật liệu từ thiên nhiên, đó là vỏ cây Mạy Kha (hoặc Mạy Sla) để làm phần giấy sợi, và vỏ cây Khởi Áo (hay cây nhớt/ cây trơn) để làm chất kết dính. Vỏ cây Mạy Kha là nguyên liệu thô để nghiền thành bột giấy, còn vỏ cây Khởi Áo tạo ra chất nhựa để kết dính các sợi bột lại với nhau thành tờ giấy bền và dai.

Để làm bột giấy, vỏ cây Mạy Kha sau khi được tước sạch, đem luộc qua nước sôi khoảng 8 phút; vớt ra, tách bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, giữ lại lớp màu trắng bên trong. Sau đó tiếp tục ngâm nguyên liệu đã sơ chế vào nước cho mềm. Trộn đều với nước vôi tôi và cho vào nồi đun. Đun khoảng 3 tiếng cho nhừ (nếu làm bằng nguyên liệu tươi thì chỉ cần ninh 1 – 1,5 tiếng). Tiếp theo vớt ra, rửa sạch, và ngâm nước trong 12 tiếng.

Vỏ cây Khởi Áo được ngâm nước để tạo ra chất lỏng trong vắt, sau đó hỗn hợp này được trộn với bột giấy để đảm bảo độ kết dính. 

“Bước tiếp theo đó là lấy vỏ cây Mạy Kha đã được ninh cho lên thớt để đập hoặc giã thành bột. Sau khi bột được giã nhuyễn sẽ được chuyển sang cho vào máng nước được làm bằng thân cây nghiến để khuấy đều cho tan. Thêm chất nhựa (keo) từ vỏ cây Khởi Áo để tạo tác dụng kết dính và khuấy đều”- chị Kính cho biết.

Sản phẩm giấy bản truyền thống của người Nùng vùng đất Cao Bằng

Khâu cuối cùng là quan trọng nhất, đây là lúc đổ bột giấy vào khuôn và tráng cho đều tay, tạo ra độ dày, mỏng của tờ giấy và ép kiệt nước. Khi giấy có độ se thích hợp, sẽ được bóc từng tờ ra khỏi khuôn và phơi lên tường khoảng hai tiếng cho khô. Toàn bộ quá trình từ chặt cây đến thành phẩm, giấy bản được làm bằng phương pháp thủ công truyền thống mất khoảng 24 tiếng.

Giấy bản do người Nùng của làng Dìa Trên làm ra được người dân trong vùng đặc biệt ưa chuộng nhờ đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt hay ẩm mốc. Trước kia, các dòng họ thường dùng loại giấy này để ghi chép thơ ca, truyện cổ dân gian, gia phả, cũng như lưu giữ ký ức và tri thức dân tộc.

Theo chia sẻ của chị Nông Thị Kính, với người Nùng và Tày ở xã Quảng Uyên, giấy bản không chỉ là vật dụng thường ngày mà còn mang ý nghĩa văn hóa – tâm linh sâu sắc, luôn hiện diện trong các dịp lễ quan trọng của mỗi gia đình. Giấy bản được sử dụng trong nghi lễ truyền thống như lễ tết, cưới hỏi, tang ma… không chỉ là sản phẩm của một làng nghề, mà còn là biểu tượng của sự tiếp nối truyền thống và lòng hiếu kính – thứ sợi dây bền chặt kết nối con người hôm nay với cội nguồn cha ông.

Ngày nay, giấy bản của người Nùng ở làng Dìa Trên, xã Quảng Uyên không chỉ được giữ gìn như một sản phẩm truyền thống, mà còn được ứng dụng linh hoạt trong đời sống hiện đại. Từ chất liệu giấy tự nhiên ấy, người dân sáng tạo nên tranh thư pháp, sổ tay, quạt, hoa giấy ép lá với họa tiết tinh tế, cùng nhiều sản phẩm thương mại như túi xách, túi giấy đựng quà, phong thư… góp phần đưa nghề làm giấy bản xưa hòa nhịp cùng nhịp sống sáng tạo hôm nay.

Các sản phẩm giấy bản của gia đình chị Nông Thị Kính luôn được du khách yêu thích và tiêu thụ tốt, đặc biệt là trong các tour trải nghiệm làng nghề. Không chỉ phục vụ khách tham quan, chị còn nhận được nhiều đơn đặt hàng thường xuyên từ các công ty. Theo chị Kính, giấy bản dày, khổ lớn dùng để vẽ tranh thư pháp có giá khoảng 30.000 đồng/tờ, còn loại giấy mỏng hơn, dùng thông thường có giá 5.000 đồng/tờ. Nhờ nguồn đơn hàng ổn định, gia đình chị có việc làm đều đặn, thu nhập bền vững, góp phần cải thiện đời sống và thúc đẩy kinh tế của làng nghề, của xã Quảng Uyên phát triển.

Nhiều bạn trẻ thích thú xem và trải nghiệm về loại giấy truyền thống qua lời chia sẻ của chị Nông Thị Kính 

Giữa dòng chảy hiện đại, nghề làm giấy bản của người Nùng ở làng Dìa Trên, xã Quảng Uyên vẫn được gìn giữ, phát huy như một báu vật văn hóa, kết tinh từ bàn tay khéo léo và tâm hồn mộc mạc của những người con nơi đây. Không chỉ là sản phẩm thủ công, giấy bản còn là chứng nhân của ký ức, của truyền thống hiếu kính và tri thức dân tộc, gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của đồng bào vùng đất Cao Bằng.

Sự bền bỉ của những nghệ nhân như chị Nông Thị Kính đã thắp lên sức sống mới cho làng nghề, biến nghề cổ truyền thành nguồn sinh kế bền vững và điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn trong lòng Công viên Địa chất Toàn cầu Non nước Cao Bằng. Mỗi tờ giấy bản ra đời không chỉ mang giá trị vật chất, mà còn chứa đựng tinh thần gìn giữ, sáng tạo và lan tỏa di sản – minh chứng cho sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ và tương lai của văn hóa dân tộc Nùng giữa non nước miền biên cương phía Bắc.

Bài, ảnh: AN NGỌC

;