Thiên nhiên tự bao đời đã trở thành mạch nguồn trong sáng tác của văn học dân tộc, nhưng cảm thức và sự thể hiện thiên nhiên không hoàn toàn giống nhau qua các thời kỳ. Thời trung đại, thiên nhiên được phản ánh trong cảm quan vũ trụ rộng lớn; giai đoạn Thơ Mới, thiên nhiên mang đậm màu sắc trữ tình của cái tôi lãng mạn. Trong truyện ngắn của nữ văn sĩ Việt Nam từ 1986 đến nay, thiên nhiên cũng trở thành đề tài cuốn hút các nữ văn sĩ. Không thiếu trong truyện ngắn của các tác giả nữ những bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, nên thơ của tạo hóa, làm nên bối cảnh sống, không gian sống của các nhân vật nữ. Nhưng ở đây, chúng tôi quan tâm đến những nội dung ẩn tiềm đằng sau những bức tranh thơ ấy. Các nữ văn sĩ đã sử dụng thiên nhiên như một ký hiệu để biểu đạt những điều rất riêng của giới nữ.
Trong truyện ngắn của các nữ văn sĩ Việt Nam từ 1986 đến nay, người đọc dễ dàng nhận ra dấu ấn văn hóa vùng miền đằng sau những trang văn. Thiên nhiên không chỉ là cảnh vật nên thơ của tạo hóa mà còn mang trong nó dấu ấn của một vùng văn hóa xử sở. Với tư duy nội cảm, những cây bút nữ dường như có thiên hướng mạnh hơn các tác giả nam trong việc quay về với những gì bình dị, thân thuộc, gắn kết mình với những gì đã đã trở thành một phần máu thịt, là quê hương xứ sở. Họ đem nó vào trong văn chương tạo nên thương hiệu của người cầm bút. Tiêu biểu theo xu hướng này có: Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Hà Thị Cẩm Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Niê Thanh Mai… Để làm nên cái hồn cốt văn hóa của quê hương, xứ sở, các nữ nhà văn phải đặt thế giới nghệ thuật của mình trên chính mảnh đất sản sinh ra nó, hằn in dấu vết văn hóa trên mọi bình diện từ cuộc sống đến con người.
Trần Thùy Mai là một nhà văn gốc Huế nên có thể khẳng định văn của chị là một phần của mảnh đất cố đô này. Có lẽ chưa bao giờ con người xứ Huế lại nhìn thấy mình nhiều đến thế trong những trang văn. Huế đi vào văn Trần Thùy Mai tựa như hơi thở, bình dị và sâu sắc. Cùng với con người, giọng điệu, thiên nhiên đã làm nên một chất Huế bàng bạc trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai. Sông Hương, bến Ngự, dốc Nam Giao, suối Trà Am… tất cả đi vào truyện ngắn của Trần Thùy Mai, tạo nên những không gian rất Huế. Không dành những đoạn văn dài để miêu tả thiên nhiên, nhưng qua những nét chấm phá, cảm giác Trần Thùy Mai bắt rất đúng cái thần của xứ Huế qua cảnh vật. Đó là những ngôi nhà vườn xanh mát, rất đặc trưng ở Huế như trong Trò chơi cấm, Tàu ngầm xuyên đại dương hay Thể Cúc. Đó là cảnh bãng lãng mây trời trên những đỉnh núi sương mù như trong Đỉnh Ngựa Trắng: “Núi Ngựa Trắng tháng mười một, ướt lạnh và đầy mây…”.
Văn của Dạ Ngân và đặc biệt là Nguyễn Ngọc Tư lại đậm màu sắc Nam Bộ. Cùng với thế hệ những lớp nhà văn đi trước như: Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã góp thêm một tiếng nói Nam Bộ đầy đặc sắc qua những trang văn của mình. Chất Nam Bộ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện đậm nét ở không gian nghệ thuật trong tác phẩm. “Nói tới Nam Bộ là người ta nghĩ đến cánh đến cánh đồng tít tắp tận chân trời, một khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt và vùng đất với chằng chịt kênh rạch” (1). Vì thế văn Nguyễn Ngọc Tư cũng tràn ngập một không gian trời nước với những sông ngòi, kênh rạch và cả những cánh đồng hun hút, mênh mang. Trong tác phẩm của chị có một không gian Nam Bộ với những loại cây, tên gọi nghe quen, dân dã: mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước..., với những vàm, kinh, rạch, xẻo, tắt chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: vàm Cỏ Xước, Vàm Mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao…
Còn với Đỗ Bích Thúy, chị lại đem đến cho độc giả một không gian đặc sệt miền núi, một vùng sinh thái đầy hoa thơm cỏ lạ của những cao nguyên đá Hà Giang kỳ vĩ. Đọc truyện ngắn của chị, người ta hình dung rõ hình ảnh: “dòng Nho Quế bé như sợi chỉ dưới chân núi Mã Pì Lèng” và dãy “Tây Côn Lĩnh cao vời vợi”. Nó giống như một tấm phông nền đặc sắc mà nữ nhà văn này đã dựng lên bằng cả tình yêu thương tha thiết. Tất cả những đặc trưng của vùng đất cực Bắc, địa đầu Tổ quốc này đều được Đỗ Bích Thúy phác họa trên những trang văn. Đó là hình ảnh của những ngọn núi cao với vợi bao quanh dòng sông Lô, là ngọn Tây Côn Lĩnh hay ngọn núi Phia Giạ: “Khắp vùng cực Bắc này, nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đá cao ngang mấy trời, nhiều như sao trên dòng sông ngân hà, ngửa mặt đếm mỏi miệng, mỏi cổ không xuể” (Cạnh bếp có cái muôi gỗ) (2). Núi nhiều đến nỗi: “Người già bảo nếu mỗi ngày leo một quả núi thì đến lúc bạc tóc cũng không biết hết núi” (Cạnh bếp có cái muôi gỗ) (3).
Ngoài Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy còn có thể kể đến một bản sắc văn hóa Mường trong truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, một dấu ấn văn hóa Tây Nguyên trong truyện ngắn của Niê Thanh Mai. Dường như mỗi nhà văn nữ đều chọn cho mình một “mảnh đất để đi về” trong văn chương. Lựa chọn một vùng đất để làm không gian sáng tác có lẽ không chỉ là đặc ân riêng của các cây bút nữ. Nhiều tác giả nam trước đây như: Nguyên Ngọc, Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Tô Hoài cũng đã từng rất thành công với thế giới nghệ thuật riêng của mình. Họ cùng tương đồng ở sự am hiểu, gắn bó sâu sắc với vùng đất mình lựa chọn. Nhưng với các nữ văn sĩ, dường như không chỉ là sự miêu tả, phản ánh bức tranh như nó vốn có mà lắng sâu sau từng nét phác họa còn có cả yêu thương lẫn niềm tự hào. Thiên nhiên là không gian, là bối cảnh nghệ thuật nhưng cũng là một phần thân thương đã in dấu trong cuộc đời và trong văn của các nữ văn sĩ.
2. Thiên nhiên và sự ký thác nỗi niềm của người phụ nữ
Khác với nam giới, thường bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ cá nhân, nữ giới lại có thiên hướng che dấu cảm tình cảm, thể hiện một cách gián tiếp những suy tư, trăn trở của bản thân qua một cái khác không phải là nó. Vì thế, thiên nhiên trở thành một phương tiện hữu hiệu để ký thác tâm tư, nỗi niềm của người phụ nữ một cách tinh tế, ý nhị. Thiên nhiên được các nữ văn sĩ sử dụng như một biểu tượng, chuyên chở nỗi niềm, khát khao không thành tiếng của những đàn bà.
Là nhà văn xứ Huế, ưa sự kín đáo, tế nhị, Trần Thùy Mai thường để nhân vật của mình trải lòng với thiên nhiên, cất giấu trong đó những nỗi niềm riêng tư của người phụ nữ. Mi trong Gió thiên đường của Trần Thùy Mai, đã từng ưa thích cái “khung cửa mênh mông” đầy gió của quán cafe Dã Thảo. Bởi Hiếu cũng yêu gió. Gió làm thổi bùng ở Mi cái tình cảm khoáng đạt, sự mơ mộng, yêu thương về một tình yêu lãng mạn. Nhưng gió cũng khiến Mi cảm thấy lạnh khi cảm giác mình bị phản bội. Chấm dứt tình yêu với Hiếu nhưng hơn một lần Mi “thèm ngồi cạnh Hiếu sau khung cửa mênh mông của cà phê Dã Thảo, chia sẻ với Hiếu một cơn gió” (4). Gió đã trở thành nhân chứng cho nỗi niềm khôn nguôi của Mi, bởi nó là bóng hình của Hiếu: “Mở cửa, hơi lạnh tạt vào, tôi không cầm lòng được, kêu lên: “Nhớ quá?”, “Nhớ gì?”- Ba tôi hỏi, “Nhớ gió!””(5). Hay như trong Dịu dàng như cỏ, những bãi cỏ xanh trên sườn dốc chính là hình ảnh của thày Rudolph, người đã gieo vào nhân vật người nữ chính một thứ tình cảm dịu dàng khó tả. Đó không hẳn là tình yêu nam nữ nhưng là sự xốn xang của một tâm hồn bắt gặp sự đồng điệu. Nó len lỏi trong tim, trở thành thứ tình cảm mạnh mẽ bất chợt trào ra lúc nào không hay biết khi phải lời chia tay: “Không giữ mình được, tôi òa khóc. Tôi biết, từ đây, không bao giờ được sống giờ phút thần tiên với những bản đàn của Bach nữa” (6).
Tương tự như thế, Nguyễn Thị Thu Huệ để nhân vật của mình lắng sâu trong biển, trong cát, ôm ấp vỗ về những yêu thương của hoài niệm như trong Cát đợi hay Biển ấm: “Đêm nay. Dù biết chỉ là một mình. Sẽ cô đơn và tràn mi nước mắt. Nhưng tôi vẫn ra biển. Cả một ngày tôi lang thành kiếm tìm trên bãi vắng dấu vết hôm qua… Tôi hồi hộp chờ mong sẽ thấy cái hõm nơi tôi nằm xuống… Tôi ngồi xuống. Rồi nằm ra, tóc để dài trên cát. Cát chở che, trìu mến vuốt ve tôi như thể cát hiểu tôi cô đơn” (Cát đợi) (7).
Điều đáng chú ý trong truyện ngắn của các nhà văn nữ là việc sử dụng một cách phổ biến những hình ảnh mang tính biểu tượng như: lửa, nước, trăng. Chúng được tri nhận như là những dấu vết của cổ mẫu. Và theo nhà nghiên cứu Lê Thị Hường, trong văn xuôi của các nhà văn nữ, mẫu gốc được sử dụng như những mã thẩm mỹ của tác phẩm. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevailer và Alain Gheerbrant, lửa đốt cháy và thiêu hủy là một biểu tượng của sự tẩy uế và tái sinh. Những đặc trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế là nguồn sống, phương tiện thanh tẩy và trung tâm tái sinh. Lửa và nước phân biệt ở chỗ: “Lửa tượng trưng cho sự tẩy uế bằng sự thấu hiểu, bằng ánh sáng và chân lý, đạt đến trạng thái thông tuệ siêu việt nhất, còn nước tượng trung cho sự thanh tẩy dục vọng, hướng tới những dạng thức cao thượng nhất, đó là lòng nhân từ” (8). Còn trăng là biểu tượng của sự phụ thuộc và của bản nguyên nữ cũng như tính tuần hoàn và sự đổi mới.
Trăng cũng trở thành biểu tượng soi chiếu trong đời sống và tâm hồn người phụ nữ. Trăng lặng lẽ như thân phận nhẫn nhịn, cam chịu của những người phụ nữ miền núi trong Sau những mùa trăng, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy. Trăng là những hạnh phúc hư ảo chập chờn trong Trăng nơi đáy giếng, Quỷ trong trăng của Trần Thùy Mai. Trăng là minh chứng tình yêu, là người bầu bạn trong Trăng góa của Lê Minh Hà hay trong Còn lại một vần trăng, Người đi tìm giấc mơ, Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Từ những mẫu gốc, các nhà văn nữ đã xây dựng thiên nhiên thành biểu tượng trong đời sống con người một cách dung dị, nhuần nhị, góp phần nâng cao hiệu thẩm mỹ của tác phẩm. Khắc họa thiên nhiên như một ký hiệu ký thác nỗi niềm của người phụ nữ, làm nên những điều rất riêng trong phương thức sáng tạo của các nữ tác giả. Bởi thiên nhiên đã từng gắn với quan niệm về vũ trụ, nhân sinh trong thơ trung đại, thiên nhiên và những bài học đắt giá của con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng chỉ dưới con mắt của các nữ nhà văn, thiên nhiên mới chất chứa yêu thương nỗi niềm của người đàn bà. Thiên nhiên và con người đã hòa làm một từ trong tâm thức và bản thể nữ, tạo nên những trang văn vừa thi vị, vừa lắng sâu của tình người.
3. Thiên nhiên và nỗi bất an sinh thái
Trong những năm gần đây, trước những biến đổi lớn về môi trường, khí hậu, sinh thái trở thành một trong những vấn đề hệ trọng của đời sống con người. Cái dây chuyền sống huyền diệu của tạo hóa đang ngày càng bị phá hủy. Và tất nhiên, văn chương cũng không đứng ngoài cuộc. Những vấn đề sinh thái được đưa vào trong sáng tác văn học như một nỗ lực cứu lấy cuộc sống của loài người. Ở Việt Nam, chưa thực sự có một dòng văn xuôi sinh thái rõ rệt nhưng những ý tưởng sinh thái đã bắt đầu được thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Duy Phiên, Nguyễn Quang Thiều, Bùi Ngọc Tấn… Truyện ngắn của các cây bút nữ cũng góp một phần không nhỏ trong tiếng nói chung ấy.
Trong truyện ngắn của mình, các nữ nhà văn đã nhận thấy nguy cơ của đời sống con người trước sự biến đổi của tự nhiên, đặc biệt là những thiên tai, thảm họa. Trong những truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy là hình ảnh những con người miền núi khiếp sợ bởi nỗi lo vì hạn hán. Không có nước khiến cây trồng không mọc được, sinh hoạt trở nên khốn khó, phải đi thật xa để gánh nước trong núi về dùng, chắt chịu từng giọt nước trong các hốc đá “Bao nhiêu năm trời nước dòng Phạ Lấu cạn khô. Muốn có nước ăn người lớn, trẻ con phải đi cả ngày, ra tận sông mới gùi về được” (Đá cuội đỏ) (9). Hạn hán còn tiềm ẩn nguy cơ của những trận cháy rừng kinh hoàng vượt lên trên cả sự chịu đựng của con người: “Tháng sáu trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc mặt trời sắp lặn…Rừng giá lách tách tiếng vỏ cây vỡ nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng…Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một màu đen của cây cháy” (10).
Nguyễn Ngọc Tư có lẽ là nữ nhà văn dành nhiều trang viết của mình nhất về nỗi lo sinh thái. Không chỉ là hạn hán với “13 tháng nắng hạn liên tiếp” như trong Sầu trên đỉnh Puvan, Cánh đồng bất tận, là hiện tượng núi lở vang trời như cơn giận dỗi của thiên nhiên trong Núi lở mà còn là sự xâm thực của biển, đẩy người nông dân đến ngày một lùi xa vào đất liền như trong Nước như nước mắt. Nữ nhà văn thể hiện sự bất an sâu sắc trước sự hủy hoại thiên nhiên của con người vì lợi ích kinh tế như trong Thổ sầu, Khói trời lộng lẫy hay Đất. Chính con người, chứ không ai khác đang can thiệp vào hệ sinh thái tự nhiên, làm phá vỡ thế cân bằng sinh thái. Nguyễn Ngọc Tư, thông qua những câu chuyện của mình đã đưa ra lời cảnh báo: “Con người hủy hoại thiên nhiên bằng cách hạ nhục nó. Thiên nhiên trả thù lại bằng cách nó biến mất” (11). Ngoài ra, một số tác phẩm cũng chú trọng đến sự tác động của quá trình đô thị hóa đến sự phát triển tự nhiên. Với việc thể hiện nỗi bất an sinh thái, các nhà văn nữ chứng tỏ ý thức trách nhiệm của mình với cộng đồng, xã hội. Tuy không nhiều cây bút theo đuổi xu hướng này nhưng các nữ văn sĩ đã đem đến một cách cảm nhận riêng về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Các tác giả nam thường phản ánh con người mà đặc biệt là người đàn ông như là tội đồ trong quan hệ với thiên nhiên. Họ thống trị tự nhiên, hủy diệt tự nhiên từ chính tham vọng làm chủ tự nhiên của mình. Những người phụ nữ miền núi trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy dường như cũng trở nên lầm lũi, cực khổ hơn dưới sự khắc nghiệt của thời tiết. Trong một số tác phẩm như: Con chó và vụ ly hôn (Dạ Ngân), Lúa hát (Võ Thị Xuân Hà), Giải vía (Hà Thị Cẩm Anh), Mùi cọp (Quý Thể)…, cây viết nữ cũng cho thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận với tự nhiên giữa phụ nữ và nam giới.
4. Kết luận
Các nhà văn nữ sáng tác văn chương với mục đích cao cả và trước hết là để giao tiếp với đời và người. Các nữ văn sĩ đã sử dụng thiên nhiên như một kí hiệu để biểu đạt những điều rất riêng của giới nữ. Nhưng với các nữ văn sĩ, dường như không chỉ là sự miêu tả, phản ánh bức tranh như nó vốn có mà lắng sâu sau từng nét phác họa còn có cả yêu thương lẫn niềm tự hào. Thiên nhiên là không gian, là bối cảnh nghệ thuật nhưng cũng là một phần thân thương đã in dấu trong cuộc đời và trong văn của các nữ văn sĩ. Vì thế trong mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi thân phận cuộc đời, họ đều có nhu cầu suy tư, chiêm nghiệm tạo nên những mô hình giao tiếp mang bản sắc riêng của phụ nữ. Đến với thiên nhiên, họ không chỉ chiêm ngưỡng, giao hòa với vẻ đẹp của tạo hóa mà còn mang vào đó biết bao nỗi niềm của người phụ nữ. Thiên nhiên vì thế trở nên lắng đọng trên mỗi trang văn, in đậm cá tính, tài năng và cả thông điệp của các nữ văn sĩ hiện đại.
_________________
1. Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền, Văn hóa ứng xử với môi trường sông nước của người Việt miền Tây Nam Bộ, journalofscience.ou.edu.vn, 2008.
2, 3. Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Nxb Văn học, 2000, tr.54, 55.
4, 5, 6. Trần Thùy Mai, Trăng nơi đáy giếng, Nxb Thanh niên, 2009, tr.168, 170, 226.
7. Nguyễn Thị Thu Huệ, 21 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nxb Hội Nhà văn, 2001, tr.9.
8. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.549.
9, 10. Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Nxb Văn học, 2000, tr.67, 86.
11. Nguyễn Ngọc Tư, Khói trời lộng lẫy, Nxb Trẻ, 2012, tr.165, 43.
TS TRẦN THỊ QUỲNH LÊ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 539, tháng 7-2023