Vai trò của nhà văn hóa làng, bản trong xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng ở thủ đô Viêng Chăn, Lào

Tóm tắt: Thủ đô Viêng Chăn, trung tâm chính trị - văn hóa của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, hiện có 481 bản, trong đó 480 bản (99,8%) đã được công nhận là bản văn hóa. Tuy nhiên, chỉ có 35 nhà văn hóa bản được xây dựng và phần lớn đang được sử dụng như văn phòng hành chính, chưa trở thành không gian sinh hoạt văn hóa đúng nghĩa cho người dân. Bài viết phân tích thực trạng và vai trò của nhà văn hóa làng, bản trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng tại Thủ đô Viêng Chăn, gắn với quan điểm chỉ đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và tư tưởng Chủ tịch Kaysone Phomvihane về việc coi văn hóa là nền tảng tinh thần và động lực phát triển.

Từ khóa: nhà văn hóa bản, đời sống văn hóa cơ sở, lễ hội truyền thống, du lịch văn hóa, công nghiệp không khói.

Abstract: Vientiane, the political and cultural center of the Lao People’s Democratic Republic, currently has 481 villages, of which 480 (99,8%) have been recognized as “cultural villages.” However, only 35 village cultural centers have been built, and most of them function mainly as administrative offices, not as true spaces for community cultural activities. This article analyzes the role and current situation of village cultural centers in developing grassroots cultural life in Vientiane, based on the Lao People’s Revolutionary Party’s guidelines and President Kaysone Phomvihane’s cultural ideology, which emphasize culture as the spiritual foundation and driving force of national development.

Keywords: village cultural house, grassroots cultural life, traditional festival, cultural tourism, smokeless industry.

Thủ đô Viêng Chăn nằm ở trung tâm đồng bằng sông Mê Kông, là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào. Thành phố có bề dày lịch sử hơn 465 năm (thành lập năm 1560) và lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá, tiêu biểu như tháp Thạt Luổng - biểu tượng quốc gia Lào, hàng trăm ngôi chùa cổ kính, cùng các lễ hội truyền thống đậm bản sắc. Với vị thế là thủ đô, Viêng Chăn luôn đi đầu trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của cả nước.

Ngay từ khi bước vào thời kỳ độc lập, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Nhà nước Lào đã đề ra chủ trương coi xây dựng văn hóa ở cơ sở là một trọng tâm chiến lược. Chủ tịch Kaysone Phomvihane - lãnh tụ cách mạng Lào - từng nhấn mạnh: phải tiến hành “cách mạng về tư tưởng và văn hóa, lấy giáo dục làm trọng tâm và phải đi trước một bước”. Quan điểm này thể hiện vai trò tiên phong của văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực nội sinh cho phát triển bền vững.

1. Các làng, bản ở Thủ đô Viêng Chăn

Trong những thập niên qua, Viêng Chăn đã đẩy mạnh phong trào “bản văn hóa” nhằm xây dựng cộng đồng dân cư tiến bộ, đoàn kết, giàu bản sắc. Các bản, làng đăng ký xây dựng “bản văn hóa” phải đạt những tiêu chí do Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch Lào ban hành (về gia đình văn hóa, cảnh quan, an ninh trật tự, xóa bỏ hủ tục...). Theo báo cáo Bộ Văn hóa Lào, đến tháng 1-2025, toàn Thủ đô có 480/481 bản (chiếm 99,8%) được công nhận danh hiệu “bản văn hóa”. Tỷ lệ này rất cao so với mức chung cả nước Lào (xấp xỉ 85% số bản đạt chuẩn văn hóa vào năm 2020), phản ánh sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng Viêng Chăn. Chất lượng danh hiệu “bản văn hóa” nhìn chung được duy trì tốt, tỷ lệ gia đình văn hóa thường đạt trên 90% số hộ ở nhiều bản. Tuy nhiên, cũng có ý kiến lo ngại hiện tượng chạy theo thành tích: một số bản vùng ven dù đạt danh hiệu văn hóa nhưng đời sống thực tế của người dân vẫn còn hạn chế về kinh tế, vệ sinh, tệ nạn xã hội... Đây là những thách thức mà phong trào cần tiếp tục quan tâm khắc phục để danh hiệu “bản văn hóa” thực sự có ý nghĩa, góp phần nâng cao đời sống cho người dân.

2. Nhà văn hóa làng, bản ở Thủ đô Viêng Chăn

Cùng với phong trào “bản văn hóa”, Viêng Chăn đã từng bước hình thành hệ thống nhà văn hóa (NVH) bản - thiết chế phục vụ sinh hoạt cộng đồng tại cấp cơ sở. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng NVH bản còn rất hạn chế so với số lượng bản văn hóa hiện có. Theo số liệu năm 2025, toàn Thủ đô mới có 35 NVH được xây dựng tại các bản, làng. Điều này có nghĩa phần lớn các bản (gần 93%) chưa có NVH phục vụ cộng đồng. Ngay cả ở 35 bản đã có NVH, cơ sở vật chất rất đơn sơ; nhiều nơi tận dụng hội trường nhỏ ghép tạm trong khuôn viên trụ sở bản làm NVH. Hiện nay, chức năng của NVH bản còn mờ nhạt, chủ yếu được dùng làm nơi họp hành, làm việc hành chính của ban quản lý bản, chưa thực sự trở thành không gian sinh hoạt văn hóa công cộng cho nhân dân. Theo khảo sát của Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch Viêng Chăn, hầu hết NVH bản chưa có thư viện hoặc tủ sách, thiếu sân bãi thể thao, không có thiết bị nghe nhìn để tổ chức văn nghệ quần chúng. Kinh phí dành cho hoạt động văn hóa ở cơ sở rất hạn chế (ngân sách văn hóa cơ sở thường chỉ chiếm dưới 1% tổng chi ngân sách địa phương). Việc duy tu NVH chủ yếu dựa vào đóng góp của người dân hoặc hỗ trợ nhỏ giọt từ ngân sách huyện. Nhân sự phụ trách NVH thường là kiêm nhiệm (bí thư chi bộ bản, trưởng bản hoặc cán bộ Mặt trận) chứ không có cán bộ chuyên trách về văn hóa cộng đồng.

Nhìn chung, hệ thống NVH cấp bản ở Viêng Chăn còn mang tính hình thức, chưa phát huy được vai trò là “trái tim” của đời sống văn hóa cơ sở. Nhiều nơi vẫn nhầm lẫn giữa trụ sở hành chính bản và NVH: bản nào cũng ưu tiên xây phòng làm việc cho chính quyền, nhưng không có không gian riêng cho sinh hoạt văn hóa của dân. Thực trạng này đòi hỏi chính quyền cần nhìn nhận lại vai trò của thiết chế văn hóa cộng đồng, có giải pháp khắc phục để NVH bản thực sự trở thành “ngôi nhà chung” của người dân, nơi gắn kết cộng đồng và tổ chức các hoạt động văn hóa, góp phần bảo tồn bản sắc và xây dựng nếp sống mới.

3. Hoạt động văn hóa của cộng đồng tại NVH

Dù cơ sở vật chất còn hạn chế, nhiều NVH bản ở Viêng Chăn vẫn là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa cộng đồng quan trọng, nhất là trong các lễ hội truyền thống. Các hoạt động này giúp duy trì phong tục tốt đẹp, xây dựng nếp sống văn hóa mới, gắn kết cộng đồng và hỗ trợ phát triển du lịch - đúng tinh thần “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển” của Đảng và Nhà nước Lào.

Lễ hội Thạt Luổng - lễ hội Phật giáo và văn hóa lớn nhất cả nước - diễn ra hằng năm vào tháng 11, kéo dài khoảng 5 ngày với nhiều nghi lễ và sinh hoạt văn hóa như rước kiệu, dâng cúng Phật, thắp nến hoa đăng, đua thuyền, biểu diễn nghệ thuật và hội chợ thương mại - du lịch. Trong dịp này, NVH các bản lân cận được dùng làm nơi sinh hoạt, lưu trú và tổ chức giao lưu văn nghệ, thể thao dân gian, góp phần tạo không khí hội hè sôi nổi và quảng bá hình ảnh Viêng Chăn.

Ngoài Thạt Luổng, nhiều lễ hội khác như Ok Phansa, Bun Pi May, hay lễ dâng cúng tại chùa Viên Âm cũng gắn liền với sinh hoạt cộng đồng ở các bản. NVH bản thường là nơi chuẩn bị của đội văn nghệ, đội đua thuyền hoặc trưng bày sản phẩm truyền thống. Điều này cho thấy, dù còn đơn sơ, NVH bản vẫn là “điểm tụ” của đời sống văn hóa - lễ hội, tạo không gian sinh hoạt chung và góp phần bảo tồn lễ tục truyền thống.

Năm 2025, kỷ niệm 465 năm thành lập Thủ đô Viêng Chăn, chính quyền tổ chức nhiều sự kiện văn hóa - du lịch lớn với sự tham gia tích cực của các cộng đồng bản. Tiêu biểu là Hội chợ Triển lãm Văn hóa - Du lịch Phatluang - Phatnamatsakan 2025 tại ITECC (đầu tháng 10-2025), quy tụ hơn 2.000 gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công, ẩm thực truyền thống và sản phẩm OCOP của các bản, huyện. Hội chợ tạo không khí văn hóa sôi động với biểu diễn Lăm Vông, trình diễn nghề thủ công và sự chuẩn bị chu đáo từ các NVH bản trước khi tham dự.

Sự kiện cho thấy NVH bản là điểm khởi phát hoạt động sáng tạo văn hóa và cầu nối cộng đồng với du lịch quy mô đô thị. Ngoài hội chợ, Lễ hội Thạt Luổng 2025 (1 đến 5-11) cũng thu hút hàng vạn người, trong đó các NVH bản quanh khu vực tiếp tục làm nơi sinh hoạt, nghỉ ngơi và giao lưu cộng đồng. Những kinh nghiệm này khẳng định rằng, khi được quan tâm đúng mức, hệ thống NVH bản có thể đóng góp thiết thực cho quảng bá văn hóa địa phương và phát triển du lịch của Thủ đô.

4. Những vấn đề đặt ra trong thời gian tới

Chức năng văn hóa bị “hành chính hóa”

Nhiều NVH bản đang bị sử dụng như trụ sở làm việc của bộ máy quản lý bản, thay vì làm không gian sinh hoạt văn hóa công cộng cho người dân. Việc này làm lu mờ chức năng văn hóa, khiến người dân không có cảm giác NVH là của cộng đồng. Nguyên nhân xuất phát từ tư duy coi nhẹ thiết chế văn hóa, ưu tiên trụ sở chính quyền hơn nơi sinh hoạt chung. Vấn đề đặt ra là cần thay đổi nhận thức: NVH không phải trụ sở ủy ban, mà phải là “ngôi nhà chung” của dân, luôn mở cửa phục vụ các hoạt động văn hóa, thể thao, học tập cho cộng đồng.

Thiếu kinh phí và nhân lực hoạt động

Ngân sách địa phương dành cho văn hóa cơ sở ở Lào rất hạn hẹp (thường dưới 1% tổng chi ngân sách). Nhiều bản có NVH nhưng đã xuống cấp, thiếu thốn trang thiết bị tối thiểu mà không có kinh phí bảo dưỡng. Mặt khác, hầu như không có cán bộ văn hóa chuyên trách cấp bản; việc tổ chức hoạt động chủ yếu dựa vào sự nhiệt tình của các đoàn thể quần chúng (phụ nữ, thanh niên, người cao tuổi…). Thiếu nguồn nhân lực am hiểu nghiệp vụ khiến nhiều NVH bản rơi vào tình trạng “cửa đóng then cài” sau lễ khánh thành, không phát huy được công năng như kỳ vọng.

Chưa gắn kết với phát triển du lịch cộng đồng

Viêng Chăn có lợi thế thu hút hàng triệu lượt du khách mỗi năm. Nhiều bản làng quanh đô thị sở hữu di sản văn hóa độc đáo (chùa chiền, lễ hội, làng nghề, ẩm thực…), có tiềm năng thu hút khách tham quan trải nghiệm. Tuy nhiên, do thiếu sự kết nối, các NVH bản chưa được đưa vào các tuyến du lịch, chưa hình thành mô hình du lịch văn hóa cộng đồng. Chương trình phát triển kinh tế “mỗi bản một sản phẩm” hiện mới chỉ tập trung khía cạnh sản xuất, chưa lồng ghép với hoạt động của NVH để trưng bày, giới thiệu sản phẩm văn hóa địa phương. Đây là tiềm năng chưa được khai thác: nếu biết tận dụng, NVH bản có thể trở thành trung tâm sáng tạo văn hóa và điểm đến cho du khách, tạo thêm nguồn thu cho cộng đồng và khuyến khích người dân gìn giữ di sản.

5. Giải pháp và khuyến nghị

Để khắc phục những hạn chế trên và phát huy vai trò của NVH bản trong xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng ở Viêng Chăn, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, phân định rõ chức năng của NVH bản: Chính quyền Thủ đô cần ban hành quy định rạch ròi giữa khu hành chính của bản và khu văn hóa cộng đồng. Mỗi bản nên có hai khu vực riêng: khu vực trụ sở (văn phòng bản) và khu vực sinh hoạt văn hóa (NVH cộng đồng kèm sân chơi thể thao). Hai khu này có thể gần nhau, nhưng phải tách bạch về quản lý, ngân sách và mục đích sử dụng. NVH bản phải được xác định là thiết chế phục vụ cộng đồng, không dùng vào họp hành công vụ. Bên cạnh đó, cần xây dựng quy chế hoạt động cho NVH bản với lịch sinh hoạt định kỳ (ví dụ: tối thứ Bảy hằng tuần tổ chức giao lưu văn nghệ hoặc chiếu phim; hằng ngày mở cửa để thanh thiếu niên đến đọc sách, chơi thể thao...). Việc xây dựng quy chế nên có sự tham gia của chính người dân, trên cơ sở hướng dẫn của Sở Văn hóa và Du lịch Viêng Chăn, để người dân coi NVH là của mình và sử dụng thường xuyên.

Thứ hai, huy động nguồn lực đầu tư và xã hội hóa: Để tăng số lượng và nâng cao chất lượng NVH bản, không thể chỉ trông chờ ngân sách nhà nước. Cần có chính sách huy động sự đóng góp của doanh nghiệp và cộng đồng (xã hội hóa) trong xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở. Thủ đô Viêng Chăn có thể học tập kinh nghiệm Việt Nam trong việc vận động doanh nghiệp tài trợ xây dựng NVH thôn, bản như một hình thức phúc lợi xã hội. Đồng thời, tranh thủ các dự án hợp tác quốc tế về phát triển cộng đồng để tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ cho văn hóa cơ sở (ví dụ: xin tài trợ từ Quỹ văn hóa của UNESCO, dự án du lịch bền vững của JICA Nhật Bản…). Có thể xem xét sáng kiến mô hình “mỗi doanh nghiệp gắn với một bản văn hóa”, theo đó một doanh nghiệp tài trợ kinh phí tổ chức hoạt động thường xuyên cho một NVH bản. Song song với đó, ngân sách thành phố cũng nên bố trí khoản chi riêng cho NVH bản (ví dụ: hỗ trợ định mức 5-10 triệu kíp/ năm cho mỗi NVH) nhằm duy trì cơ sở vật chất và hoạt động tối thiểu.

Thứ ba, bồi dưỡng nhân lực và xây dựng chương trình hoạt động: Sở Văn hóa và Du lịch cần phối hợp với Sở Nội vụ Viêng Chăn bố trí cán bộ phụ trách NVH bản. Mỗi bản nên có một cán bộ văn hóa thông tin bán chuyên trách, được hưởng phụ cấp và chịu trách nhiệm quản lý NVH, tổ chức các phong trào. Lực lượng này có thể tuyển chọn từ những đoàn viên thanh niên nhiệt huyết tại địa phương và cần được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên (kỹ năng tổ chức sự kiện văn hóa, hoạt náo cộng đồng, quản lý thư viện, câu lạc bộ...). Ngoài ra, cần phát huy vai trò của các “hạt nhân văn nghệ quần chúng” - tức là các nghệ nhân dân gian, người cao tuổi am hiểu văn hóa truyền thống trong bản, mời họ tham gia hướng dẫn tại NVH (dạy múa Lăm Vông, dạy nhạc cụ truyền thống, truyền dạy chữ viết cổ...). Về nội dung, cần xây dựng chương trình hoạt động phong phú cho NVH bản: từ các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao đến các buổi sinh hoạt chuyên đề (tuyên truyền pháp luật, tập huấn khoa học kỹ thuật cho nông dân). Mỗi dịp lễ Tết nên có hoạt động tại NVH (ví dụ: thi gói bánh ngày Bun Pi May, giao lưu “Tiếng hát gia đình văn hóa” nhân Quốc khánh 2-12...). Khi hoạt động đa dạng và hấp dẫn, NVH bản sẽ thu hút người dân đến sinh hoạt, dần trở thành trung tâm không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.

Thứ tư, gắn kết NVH bản với phát triển du lịch cộng đồng: cần định hướng đưa các NVH bản vào mạng lưới sản phẩm du lịch văn hóa - sinh thái của Viêng Chăn. Sở Du lịch có thể phối hợp Sở Văn hóa lựa chọn một số bản văn hóa tiêu biểu có tiềm năng đón khách, thí điểm xây dựng mô hình du lịch cộng đồng (homestay, trải nghiệm làm nông, học múa truyền thống tại NVH bản). Chương trình One Village - One Product (mỗi bản một sản phẩm) nên tích hợp với hoạt động NVH: bố trí một góc trưng bày sản phẩm OCOP của bản ngay tại NVH, để khách du lịch có thể ghé mua sắm và xem trình diễn quy trình sản xuất (dệt vải, đúc tượng Phật, làm giấy dó). Các lễ hội địa phương độc đáo như lễ hội cầu mưa của dân tộc Phu Thái ở ngoại ô Viêng Chăn, lễ hội cơm mới của người Thái Đăm cần được hỗ trợ quảng bá, nâng tầm thành sự kiện thu hút du khách. Khi đó, NVH bản sẽ đóng vai trò trung tâm tổ chức tập luyện và điều phối các hoạt động phụ trợ. Việc gắn kết chặt chẽ NVH bản với ngành Du lịch không chỉ tạo thêm nguồn thu (một phần lợi nhuận du lịch có thể trích hỗ trợ lại cho NVH), mà còn giúp người dân thấy giá trị kinh tế của văn hóa, từ đó tích cực hơn trong việc gìn giữ di sản đúng theo phương châm xã hội hóa. Đây cũng là cách cụ thể để thực hiện chủ trương của Đảng về “phát huy sức mạnh quần chúng trong bảo vệ, phát huy di sản văn hóa, để văn hóa ngày càng thúc đẩy phát triển đất nước”.

6. Kết luận

Trong bối cảnh Viêng Chăn đang phát triển nhanh theo hướng đô thị hiện đại, việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo phát triển xã hội bền vững. NVH bản, với tư cách là thiết chế văn hóa gần dân nhất, cần được quan tâm đầu tư đúng mức để trở thành trung tâm sinh hoạt cộng đồng, góp phần giữ gìn bản sắc và nâng cao đời sống tinh thần cho người dân Thủ đô. Thực tế cho thấy, hệ thống NVH bản ở Viêng Chăn tuy đã hình thành, nhưng còn nhiều bất cập cả về số lượng lẫn hiệu quả hoạt động. Để khắc phục, rất cần những giải pháp đồng bộ từ hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường nguồn lực đến đổi mới phương thức hoạt động, gắn với các mục tiêu phát triển du lịch và kinh tế địa phương.

Tư tưởng của Chủ tịch Kaysone Phomvihane và quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn đề cao vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển và đặc biệt phong trào văn hóa phải bắt đầu từ chính quần chúng nhân dân. Do vậy, việc phát huy vai trò NVH bản ở Viêng Chăn chính là cụ thể hóa sinh động đường lối “đưa văn hóa về cơ sở”, huy động sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng nếp sống văn minh, gìn giữ hồn cốt dân tộc. Khi mỗi NVH bản thực sự trở thành “ngôi nhà chung” rộn rã tiếng khèn, điệu múa; lan tỏa tri thức và kết nối tình làng nghĩa xóm, thì đời sống văn hóa ở Thủ đô Viêng Chăn sẽ ngày càng phát triển lành mạnh, góp phần xây dựng đất nước Lào “hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và văn minh” như mục tiêu mà Đảng và Nhân dân Lào đã lựa chọn.

_____________________-

Tài liệu tham khảo

1. Sở Thông tin, Văn hóa và Du lịch Thủ đô Viêng Chăn, Báo cáo thống kê phong trào “Gia đình văn hóa”, “Bản văn hóa” năm 2025, Viêng Chăn, 2025.

2. Trần Kim Cúc, Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về phát triển văn hóa, tapchicongsan.org.vn, 6-12-2013.

3. Xem thêm: Maliya Inhaksa, Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở Viêng Chăn (Lào), Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 8-2021.

4. Souksavanh Pathchai, Quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở Lào hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị, 3-2022.

Ngày Tòa soạn nhận bài: 15-10-2025; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 15-11-2025; Ngày duyệt đăng: 30-11-2025.

Ths MALIYA INHAKSA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 627, tháng 12-2025

;