Vấn vít "Những ngọn khói bên đường"

Sau Đất bên ngoài Tổ quốc (Thơ, in chung với Lê Minh Quốc, NXB Văn học 1995), Những người không gặp nữa (Truyện ký, 2006), Mùa chinh chiến ấy (Hồi ký, 2016), Một trăm ngày trước tuổi 20 (Tiểu thuyết, 2018), Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt (Truyện ký, 2022), mới đây, nhà văn - nhà biên kịch Đoàn Tuấn cho ra mắt tập bút kí Những ngọn khói bên đường, nối tiếp đề tài mà ông đặc biệt quan tâm: Cuộc sống và chiến đấu của đồng đội chiến trường K. Sách do NXB Trẻ ấn hành quý 3 năm 2025.

Dù đang làm gì, đang ở đâu, thì nhà văn nhà biên kịch Đoàn Tuấn vẫn khẳng định đầu tiên và trên hết là một người lính từng tham gia chiến trường K.

Có thể cảm nhận điều này khi gặp ông và đọc những tác phẩm của ông. Một Đoàn Tuấn giản dị, hoạt bát trong đời thường thoắt trở nên xa xăm, anh ánh nỗi buồn.

“tìm gì nữa giữa bốn bề sóng cuốn

nhịp thời gian đang vô cảm bủa vây

tìm gì nữa trong tận cùng thương nhớ

đã dậy men ngay dưới gót giày”

Đó là một trích đoạn do nhà thơ Lê Minh Quốc chấp bút trong lời tựa cuốn sách Những ngọn khói bên đường. Mỗi lần Đoàn Tuấn xong bản thảo, Lê Minh Quốc lại tất bật làm “bà đỡ”, tìm nơi in sách và viết tựa cho bạn. Lần này lời tựa của Quốc là một bài thơ:

“sáng hôm nay ngược xuôi trên phố xá

tôi nghe ai réo gọi rất mơ hồ

NHỮNG NGỌN KHÓI BÊN ĐƯỜNG ai thấu cảm

ai nhìn ra thấp thoáng những đường tơ”

Lê Minh Quốc và Đoàn Tuấn hơn kém nhau một tuổi, kẻ Nam người Bắc, cùng ôm giấc mộng văn chương, tình cờ gặp nhau ở Chiến trường K, không chung một đại đội, nhưng tri kỉ mãi tới bây giờ. Giữa hai người bạn ấy có một ký ức chung về đồng đội, về những tháng ngày tuổi trẻ “đất bên ngoài Tổ quốc”. Lê Minh Quốc gặp lại mình trong từng trang viết của Đoàn Tuấn.

Và ở cuốn sách lần này, những kí ức phân mảnh hơn, trầm lắng hơn, song vẫn ắp đầy nỗi nhớ, sự xót xa, thêm cảm giác có phần bất lực, trống trải. Bởi thời gian cứ mỗi ngày mỗi xa, hay bởi tóc trên đầu mỗi ngày mỗi bạc? Ngày nào đó, dòng kí ức có bị bào mòn, đứt đoạn?

Vậy nên số phận đặc biệt của người lính tham gia cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tiếp tục được nhà văn Đoàn Tuấn tập trung khai thác. Họ phải rời xa đất mẹ, chiến đấu với kẻ thù giấu mặt, sống và chết chỉ cách nhau gang tấc, đói khát thiếu thốn đủ đường. Nhiều nhân vật từng xuất hiện trong các cuốn sách trước tiếp tục hiện diện ở cuốn sách này: Lê Minh Quốc, Hoàng An, Lê Thanh Chè, Tuấn Chim Cu, Dương Công Hạm… Cả những tên đồng đội lần đầu tiên được nhắc đến cũng đi cùng với chi tiết đậm chất lính. Họ xuất thân từ nhiều vùng đất nước: Hà Nội, Thái Bình, Thanh Hóa, hay Nghệ An, Quảng Trị, Đà Nẵng… Học vấn khác nhau, giọng nói khác nhau, những thói quen và cách ứng xử cũng khác nhau, nhưng khi có mặt trên đất bạn, họ gọi nhau là đồng hương, cùng chia nhau miếng xà phòng, chút nước uống, chung nhau tuổi 18 với nỗi nhớ nhà: “Chúng tôi 18 tuổi, vào lính. Sống trong lửa, trong nước. Trong mùa khô nghiệt ngã, trong mùa mưa sốt rét. Tôi luyện nơi sinh tử. Chẳng có ham muốn gì. Chỉ mong về nhà. Chiến đấu nơi này cũng chỉ vì tình yêu với phía sau. Với ngôi nhà, với quê hương, với những người thân yêu. Chúng tôi đâu có cần một vùng đất xa lạ. Chúng tôi cần một mái nhà bình yên phía sau”.

Khi viết những dòng này, nhà văn Đoàn Tuấn đã ngoài 60 tuổi, và cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã đi qua gần 40 năm. Nhưng ảnh hình kí ức càng trở nên sống động, hằn như vệt máu đỏ rực trên thảm cỏ vàng mùa khô vẫn trở đi trở về trong cả giấc mơ. Đoàn Tuấn và rất nhiều đồng đội chưa bao giờ ra khỏi cuộc chiến, như chính ông thừa nhận: “Họ đã đi qua một cuộc chiến tranh. Họ đã từ cuộc chiến trở về. Nhưng cuộc chiến chưa bao giờ ra khỏi họ”.

Những ngọn khói bên đường trước hết là chân dung của người lính tuổi mười tám đôi mươi. Khi lính yêu, tình yêu đầu đời run rẩy, mấy chục năm sau vẫn nhớ cảm giác hồi hộp của buổi đầu hẹn hò, cả những tiếc nuối dở dang bởi chiến tranh. Khi lính nhớ nhà: chép từng lá thư của vợ vào cuốn sổ, thi thoảng lại giở ra xem, đọc đến thuộc lòng. Khi lính khát, gặp vũng nước đầy lá mục: “Như đàn trâu, tất cả lao xuống, vục đầu vào nước, úp mặt vào vũng nước, tu, uống, múc, dội. Một khung cảnh sung sướng đến tột đỉnh”. Khi lính hy sinh thì sao? Đoàn Tuấn viết: “Ba anh bám vào cái cây đổ ngang. Không ngờ, đó lại là mục tiêu cho bọn địch nhắm bắn. Ba anh chết đứng dưới suối. Có người tay bám thân cây. Có người tay giơ cao chới với”.

Đoàn Tuấn cùng đồng đội trong một buổi ra mắt sách

 

Ngắn, gọn, ắp đầy chi tiết, đầy chất tạo hình. Đó là đặc điểm của văn Đoàn Tuấn. Chất văn của người làm biên kịch điện ảnh và giảng dạy, làm báo. Nhưng trước hết và sau cùng, đó là chất văn của kí ức, của những nỗi đau đã được nén đặc lại, cô đặc lại. Chất văn của người lính khao khát tỏ bày về những năm tháng thanh xuân của mình và đồng đội, mong những năm tháng ấy không bị trượt đi trong dòng sông đời sống ngổn ngang có phần bạc bẽo. Con người chúng ta vốn nhanh quên. Song nếu quên hết, cuộc sống còn lại gì? Giữa những lãng quên, Đoàn Tuấn chọn cách nhớ. Bởi ông không cho phép mình được thoải mái ấm êm, khi rất nhiều đồng đội đã ngã xuống, nhiều đồng đội chưa được trở về đất mẹ, và nhiều đồng đội giữa đời thường thì người lạc lõng, kẻ vất vả mưu sinh, người đối diện với bệnh tật hiểm nghèo.

Sống và chết là hai trạng thái. Đoàn Tuấn đề cập cả hai. Đặc biệt là cái chết. Người lính từng trải qua lằn ranh sinh tử, đối diện với cái chết thật nhẹ nhàng. 5 năm quân ngũ, bản thân ông cũng không thể nhớ đã tự tay chôn cất bao nhiêu đồng đội, viết điếu văn và tổ chức khâm niệm cho bao người. Và khi hòa bình, lại tiếp tục tìm kiếm hài cốt, thăm viếng người đã khuất. Song khi nhớ về từng gương mặt đã biết đã quen, cảm giác vẫn vô cùng ám ảnh: Anh nuôi Bình điếc bị trúng đạn, đồng đội bới cát dưới lòng suối chôn tạm. Mùa mưa đến, lũ về, cuốn các anh đi đâu không biết. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh Hà Huy Lan nằm nghiêng trên thảm lá tre, đầu gối lên khẩu M79, đôi dép cao su xếp ngay ngắn dưới chân. Đại đội trưởng Phạm Xuân Khai dính đạn, máu thấm ướt lưng áo, không có đủ băng gạc để cầm máu cho anh, anh mất mà sắc mặt vẫn còn tươi…

Đoàn Tuấn bên đồng đội giữa thời bình

 

Viết về sự hi sinh của đồng đội, nhà văn Đoàn Tuấn đặc biệt quan tâm đến sợi dây kết nối giữa người sống và người chết. Chị Oanh - người yêu liệt sỹ Dương Công Hạm đã kể lại cho ông nghe về giấc mơ kì lạ của mình. Ngày liệt sỹ Dương Công Hạm hy sinh, chị Oanh mơ thấy anh ngồi trên chiếc xe đang chạy. “Bỗng chiếc xe nổ tung. Hạm bay từ trên xe xuống đất. Giấc mơ của chị Oanh đúng như hiện thực cái chết của Hạm”. Cũng ở cách xa mấy chục nghìn cây số, vào ngày liệt sỹ Đỗ Bá Sinh bị trúng đạn, mẹ anh mơ thấy anh bị thương: “Thằng địch giương súng, bắn con tôi. Tôi đỡ con. Sinh ôm chân tôi. Máu ra nhiều. Tôi kêu lên: Trời ơi! Con bị thương rồi!”. Bốn mươi năm sau, ở tuổi gần 90, người mẹ ấy vẫn nhớ rõ ràng từng chi tiết và kể lại giấc mơ này cho đồng đội của con nghe.

Có nhiều cách hiểu về tựa đề Những ngọn khói bên đường mà nhà văn Đoàn Tuấn đã đặt cho cuốn sách mới của ông, gồm hơn 60 bút ký và tạp văn. Mỗi người lính ở trong cuốn sách này cũng có thể là một ngọn khói, những ngọn khói nhẹ nhàng, lãng du, gần đấy mà xa đấy, hiện thực đấy mà có thể chỉ còn là ảo ảnh. Số phận con người giữa vũ trụ bao la, trong chiến tranh hay giữa những biến thiên lịch sử thực vô cùng bé nhỏ. Sống và chết, được và mất chỉ cách nhau gang tấc. Thấu hiểu điều ấy, nhưng Đoàn Tuấn không buông xuôi. Ông nỗ lực thắp lên ngọn lửa, để gọi những ngọn khói bay lên vấn vít, sưởi ấm những linh hồn phiêu bạt, sưởi ấm những giấc mơ về đồng đội. Và những độc giả của Đoàn Tuấn, dù không dự phần vào chiến tranh vẫn cảm nhận được niềm rung động sâu xa, trân quý thứ năng lượng bình an được đánh đổi bằng chính thanh xuân của nhiều thế hệ.

 

ANH THƯ

Nguồn: Tạp chí VHNT số 626, tháng 11-2025

;