Xuất bản góp phần vào phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Trong bài viết Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển theo chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” (1). Đây là kim chỉ nam cho mọi lĩnh vực, trong đó công tác xuất bản với tư cách là một bộ phận hợp thành của văn hóa có vai trò quan trọng, trực tiếp góp phần kiến tạo tri thức, hình thành nhân cách, bồi đắp văn hóa và hun đúc tinh thần dân tộc.

Sách giúp bạn đọc trẻ mở cánh cửa tri thức, làm chủ tương lai trong kỷ nguyên mới - Ảnh: Hồng Vân

1. Văn hóa và con người trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh những định hướng lớn trên con đường phát triển đất nước. Đây là kỷ nguyên mà mục tiêu không chỉ là phát triển kinh tế, mà còn là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, thực hiện lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Gắn với lĩnh vực văn hóa và con người, trong đó có hoạt động xuất bản, có thể tiếp cận về “Kỷ nguyên mới” với 4 đặc trưng cơ bản như sau:

Đặt mục tiêu con người và hạnh phúc nhân dân lên hàng đầu: trong kỷ nguyên này, mọi người dân đều được hướng đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến, sáng tạo và làm giàu chính đáng. Khát vọng phát triển đất nước gắn chặt với khát vọng nâng cao đời sống nhân dân - cả về vật chất lẫn đời sống tinh thần.

Xác lập vị thế và bản lĩnh dân tộc trong tiến trình toàn cầu hóa: Việt Nam không chỉ phát triển cho mình, mà còn hướng tới việc “đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh thế giới”. Đây là bước trưởng thành lớn của một dân tộc từng bị đô hộ, nghèo nàn, nay đang vươn mình, phát triển với tư thế chủ động, tự tin và có trách nhiệm.

Phát triển dựa trên sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại: kỷ nguyên mới đòi hỏi khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, đồng thời biết tranh thủ và hòa nhịp cùng sức mạnh của thời đại: khoa học - công nghệ, văn hóa, kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo. Đó là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc và hội nhập.

Định hướng rõ ràng các mục tiêu chiến lược của quốc gia: kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được cụ thể hóa bằng những đích đến quan trọng. Đó là: đến năm 2030: Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.

Trên tinh thần đã được văn kiện Đảng khẳng định qua các kỳ Đại hội, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc đặt văn hóa và con người ở vị trí trung tâm chính là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng vươn lên hùng cường, thịnh vượng, bởi:

Văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc: trong bối cảnh chuyển đổi số, toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế gay gắt, không chỉ tài nguyên hay công nghệ, mà văn hóa mới là “sức mạnh mềm” mang tính bản sắc, là nền tảng để định vị quốc gia và duy trì sự phát triển bền vững. Văn hóa tạo ra giá trị tinh thần, chuẩn mực đạo đức, lối sống lành mạnh, giúp định hướng hành vi và nhân cách con người, nâng cao năng lực tự vệ của xã hội trước những biểu hiện suy thoái, lai căng. Văn hóa còn là chất keo gắn kết cộng đồng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Trong kỷ nguyên số, văn hóa không chỉ được “tiêu dùng”, mà còn trở thành nguồn lực sản xuất và sáng tạo, là một ngành công nghiệp với giá trị kinh tế - tinh thần lớn.

Con người là chủ thể, trung tâm và mục tiêu của phát triển: Đảng ta đã nhiều lần khẳng định “Muốn phát triển đất nước bền vững, phải phát triển con người toàn diện”. Trong kỷ nguyên mới, con người không chỉ là người lao động, mà còn là người kiến tạo, người đổi mới, người thụ hưởng thành tựu của công cuộc đổi mới. Và cũng theo đó, con người của kỷ nguyên mới cần vươn tới hoàn thiện, làm chủ tri thức và khoa học công nghệ, có tư duy đổi mới, sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp, có kỹ năng số và năng lực hội nhập toàn cầu, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh văn hóa. Xây dựng con người trong kỷ nguyên mới không thể chỉ dựa vào giáo dục nhà trường, mà cần sự phối hợp giữa giáo dục - văn hóa và môi trường xã hội. Trong đó, vai trò của các thiết chế văn hóa, sản phẩm tri thức và hệ giá trị truyền thống - hiện đại là không thể thay thế.

Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người: Văn hóa và con người có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại và không thể tách rời. Văn hóa định hình con người thông qua việc truyền bá giá trị, chuẩn mực và tri thức. Con người phát triển đến đâu thì văn hóa lan tỏa, sáng tạo và nâng tầm đến đó. Trong kỷ nguyên mới, xây dựng con người văn hóa chính là con đường ngắn nhất để phát triển một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc và làm phong phú giá trị nhân loại. Và, để đạt được điều đó, chúng ta cần một nền tảng văn hóa vững chắc, một thế hệ công dân Việt Nam giàu bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng và có năng lực thích ứng cao. Đây chính là lý do vì sao phát triển văn hóa và con người tiếp tục được xác định là một trong những nội dung ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới.

2. Phát triển xuất bản trong kỷ nguyên mới

Trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam, hoạt động xuất bản luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trên mặt trận tư tưởng, lý luận và văn hóa. Từ những ấn phẩm đầu tiên cổ vũ tinh thần yêu nước, phản ánh khát vọng độc lập dân tộc, đến những bộ sách lý luận chính trị, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật... xuất bản đã trở thành kênh thông tin chủ lực trong việc xây dựng con người mới, xã hội mới, đồng thời là công cụ sắc bén để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch.

Ngay từ thời kỳ cách mạng trứng nước, khi đất nước còn chìm trong bóng tối nô lệ, hoạt động xuất bản đã sớm trở thành một vũ khí tư tưởng quan trọng của phong trào cách mạng. Các ấn phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (dịch từ Mác - Ăngghen), Những vấn đề dân tộc và thuộc địa, Lịch sử giai cấp công nhân... không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam mà còn góp phần giác ngộ giai cấp công nhân, thắp lên khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Dù điều kiện in ấn thiếu thốn, các cơ sở in bí mật của Đảng ở cả 3 miền vẫn không ngừng phát hành tài liệu, sách, báo tuyên truyền cách mạng, nuôi dưỡng lòng yêu nước, thúc đẩy các cao trào đấu tranh.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hoạt động xuất bản nhanh chóng phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ và động viên toàn dân kháng chiến kiến quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các nhà xuất bản như Lao động, Sự thật, Văn hóa, Giáo dục, Quân đội Nhân dân... lần lượt ra đời, đảm nhận nhiệm vụ xuất bản các tác phẩm lý luận chính trị, văn kiện Đảng, sách giáo khoa, tài liệu quân sự, văn học kháng chiến... Trong kháng chiến chống Mỹ, hoạt động xuất bản tiếp tục phát huy vai trò là thành lũy vững chắc về tư tưởng. Hệ thống xuất bản của ta trong hai cuộc kháng chiến không chỉ tồn tại, mà còn lớn mạnh giữa khói lửa chiến tranh, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Xuất bản đã trở thành “kênh vận chuyển” văn hóa từ đô thị đến nông thôn, từ vùng tự do đến vùng căn cứ kháng chiến, từ hậu phương ra tiền tuyến, làm giàu đời sống tinh thần nhân dân, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.

Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động xuất bản tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ, khẳng định vai trò là nơi tích lũy và lan tỏa tri thức về khoa học xã hội nhân văn đến khoa học công nghệ, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Qua đó, hình thành nền tảng nhận thức sâu sắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam hiện đại. Đồng thời, xuất bản góp phần củng cố chuẩn mực đạo đức xã hội, định hướng giá trị sống đúng đắn, khơi dậy tinh thần nhân văn, lòng yêu nước, trách nhiệm công dân và khát vọng cống hiến vì sự nghiệp chung.

Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nơi đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là động lực trọng yếu, kế thừa thành tựu 80 năm qua, ngành Xuất bản cần tái cấu trúc để trở thành lực lượng chủ lực trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Cụ thể:

Xuất bản - tuyến đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng, xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, lan tỏa khát vọng phát triển đất nước: Bằng sức mạnh thông tin và tri thức, xuất bản giữ vai trò “tuyến đầu” góp phần củng cố, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại các luận điệu sai trái, xuyên tạc, giữ vững trận địa tư tưởng trước sự phức tạp của thông tin trên mạng xã hội trong điều kiện cả nước thực hiện cuộc cách mạng “tinh gọn bộ máy” và “khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số”; Xuất bản nuôi dưỡng tâm hồn, nhân cách, đạo đức, hướng con người đến chân - thiện - mỹ. Trong thời đại số và toàn cầu hóa, xuất bản là một kênh thiết yếu để giữ gìn và lan tỏa giá trị đạo lý truyền thống, đóng góp quan trọng xây dựng hệ giá trị quốc gia; Xuất bản là một phương tiện hiệu quả để truyền tải mục tiêu, lý tưởng và hoài bão phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng như tinh thần trong các Nghị quyết của Đảng.

Xuất bản - nền tảng và động lực thúc đẩy đổi mới, sáng tạo quốc gia, phát triển kinh tế tri thức: Đổi mới sáng tạo không thể thiếu tri thức nền và tư duy độc lập - cả hai đều được nuôi dưỡng bởi môi trường xuất bản lành mạnh, phong phú. Trong đó: Xuất bản - nền tảng cung cấp tri thức nền cho đổi mới sáng tạo. Mọi phát minh, sáng kiến, mô hình mới đều phải bắt nguồn từ hiểu biết nền tảng. Xuất bản, với vai trò lưu giữ, phổ biến và tích lũy tri thức qua thời gian, chính là một trong những thiết chế đầu tiên giúp hình thành năng lực tư duy và kiến thức nền cho toàn xã hội. Xuất bản là không gian thúc đẩy tư duy phản biện và sáng tạo cá nhân, là môi trường nuôi dưỡng tự do học thuật, nơi khuyến khích những quan điểm mới, góc nhìn khác biệt, sáng tạo nội dung. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, xuất bản tạo điều kiện cho các tác phẩm thử nghiệm, đổi mới phong cách, thể nghiệm góp phần định hình văn hóa sáng tạo và đổi mới trong xã hội. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, xuất bản số tạo điều kiện để người đọc trở thành người sáng tạo nội dung (User-Generated Content), làm phong phú hệ sinh thái sáng tạo mở, thúc đẩy nền kinh tế tri thức dựa vào cộng đồng; Xuất bản kết nối và lan tỏa giá trị đổi mới trong xã hội. Một chính sách mới, một tư duy quản trị mới, một công trình khoa học có giá trị sẽ không tạo được sức lan tỏa nếu thiếu xuất bản. Xuất bản giúp truyền tải các mô hình thành công, bài học kinh nghiệm đến đông đảo công chúng, từ đó góp phần chuyển giao tri thức, tạo “hiệu ứng lan truyền” và thúc đẩy tiến bộ xã hội, xây dựng tinh thần sáng tạo cho xã hội, yếu tố cốt lõi của kinh tế tri thức (2).

Xuất bản - lực lượng quan trọng phát triển văn hóa và trọng điểm để phát triển công nghiệp văn hóa: Xuất bản không chỉ là sản phẩm của văn hóa mà còn là một ngành công nghiệp văn hóa quan trọng, kết nối giữa người sáng tạo và người tiếp nhận, giữa giá trị thị trường và giá trị tinh thần; xuất bản là công cụ bảo tồn, phát huy và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc lưu giữ, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật, lý luận - phê bình, các di sản ngôn ngữ, phong tục, lịch sử…; xuất bản là trung tâm sản xuất nội dung văn hóa gốc (original content) - yếu tố đầu vào không thể thiếu của các ngành công nghiệp khác như điện ảnh, truyền hình, trò chơi điện tử, truyền thông đa phương tiện…; xuất bản là cầu nối hội nhập văn hóa quốc tế, qua các hoạt động dịch thuật, xuất bản song ngữ, tham gia hội sách quốc tế và chuyển thể nội dung đa nền tảng.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, con người trong kỷ nguyên mới, ngành Xuất bản Việt Nam cần phát triển theo các hướng sau:

Một là, cần khẳng định vai trò là một thiết chế văn hóa chủ lực

Ngành Xuất bản cần tiếp tục phát huy vai trò là kênh truyền bá tư tưởng, định hướng giá trị, lan tỏa tri thức đến mọi tầng lớp nhân dân. Tăng cường xuất bản các ấn phẩm có giá trị lý luận, chính trị, văn hóa, đạo đức, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Muốn vậy, ngành Xuất bản trước hết cần tăng cường chất lượng và chiều sâu nội dung xuất bản. Ưu tiên xuất bản các tác phẩm có giá trị tư tưởng - học thuật - nghệ thuật cao, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân cách và đạo đức xã hội. Khuyến khích sáng tác, dịch thuật, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị, văn học, nghệ thuật, các đề tài quan trọng đối với công cuộc xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện đại.

Phát triển xuất bản gắn liền với chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa: liên kết giữa xuất bản - truyền thông - công nghệ để phát triển sản phẩm đa nền tảng, gia tăng giá trị sản phẩm văn hóa. Tạo cơ chế thuận lợi cho hợp tác quốc tế, phát triển thị trường xuất khẩu sách, nâng cao hình ảnh Việt Nam qua xuất bản. Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi số và xây dựng hệ sinh thái xuất bản số. Xây dựng hệ thống các nhà xuất bản - đơn vị công nghệ - nền tảng phân phối - người tiêu dùng tương tác chặt chẽ, tạo thành một chu trình số khép kín. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ tham gia sâu vào lĩnh vực xuất bản, hỗ trợ xây dựng nền tảng xuất bản số, phân phối, phân tích dữ liệu bạn đọc. Kết nối xuất bản với các ngành công nghiệp sáng tạo khác (giáo dục, truyền thông, giải trí…) để tạo ra các sản phẩm văn hóa tích hợp, có giá trị gia tăng cao. Xây dựng hạ tầng xuất bản số: nền tảng xuất bản điện tử, thư viện số, kho dữ liệu tri thức mở, tiến tới thực hiện nhiệm vụ “xây dựng hệ tri thức Việt Nam” (3).

Hai là, xây dựng đội ngũ những người làm xuất bản chuyên nghiệp, đa năng, có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng với công nghệ mới

Người làm xuất bản trong thời đại mới không chỉ là người làm sách mà chính là người sáng tạo giá trị văn hóa với yêu cầu mới như: tư duy phản biện, khả năng tổ chức nội dung, biên tập dữ liệu lớn và sáng tạo nội dung số, làm chủ các công cụ số phục vụ hoạt động xuất bản hiện đại (AI, big data, phần mềm xuất bản kỹ thuật số, thiết kế đa nền tảng...). Đặc biệt, sẵn sàng thay đổi quy trình, phương thức làm việc để phù hợp với xu thế xuất bản điện tử, xuất bản trực tuyến, phân phối đa kênh. Và, quan trọng hơn, tiến tới xây dựng văn hóa làm sách vì sứ mệnh phát triển phồn vinh của đất nước, vì hạnh phúc của con người.

Ba là, bảo đảm quyền tiếp cận sách cho mọi người dân, thu hẹp khoảng cách tri thức giữa các vùng miền, xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời

Cần gắn xuất bản với chiến lược phát triển con người và nâng tầm văn hóa quốc gia, đưa sách và văn hóa đọc vào mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, đối tượng yếu thế; kết nối hệ thống xuất bản với thư viện, trường học, bảo tàng, thiết chế văn hóa cơ sở; đẩy mạnh truyền thông về vai trò của sách và người làm sách trong thời đại mới trên cơ sở phát huy đồng bộ vai trò của các chủ thể, nhà nước, các đơn vị xuất bản, doanh nghiệp công nghệ và sáng tạo nội dung số, tổ chức hội và cộng đồng. Đặc biệt, Nhà nước cần giữ vai trò định hướng bằng cơ chế, chính sách, bảo đảm ngân sách, khuyến khích sáng tạo nội dung tri thức đại chúng, thúc đẩy văn hóa đọc.

Bốn là, hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao vị thế xuất bản Việt Nam

Cần chủ động tham gia các hoạt động xuất bản quốc tế như: tăng cường tham dự các hội chợ sách quốc tế (Frankfurt, Lahavana, Bologna, Bắc Kinh, Seoul…). Thúc đẩy các chương trình xuất khẩu bản quyền, hợp tác xuất bản. Tham gia các tổ chức quốc tế về xuất bản như Hiệp hội Xuất bản quốc tế (IPA), Hiệp hội xuất bản châu Á Thái Bình Dương (APPA), Hiệp hội xuất bản Đông Nam Á (ABPA) (4)... Đặc biệt, cần xem xuất bản là một phần trong chiến lược quốc gia về ngoại giao văn hóa với kế hoạch đầu tư đồng bộ, dài hạn. Xây dựng chiến lược đưa sách Việt Nam ra nước ngoài qua các chương trình quốc gia về quảng bá tác phẩm, hỗ trợ bản quyền, dịch thuật (5) để thực hiện mục tiêu “Đẩy mạnh hội nhập quốc tế về văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, nâng cao sức mạnh mềm và vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế” của Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Năm là, tăng cường vai trò quản lý nhà nước, hoàn thiện thể chế chính sách

Công tác quản lý nhà nước không chỉ mang tính “kiểm soát” mà cần được nhìn nhận là hệ thống kiến tạo phát triển, trong đó cần: hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với xu thế phát triển mới; bổ sung khung pháp lý cho các vấn đề mới như: xuất bản xuyên biên giới, bản quyền số, nền tảng trung gian, kiểm duyệt nội dung AI... Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về xuất bản. Tăng cường vai trò chỉ đạo, điều tiết của cơ quan quản lý trong việc quy hoạch, định hướng nội dung, giám sát hoạt động xuất bản. Thiết lập cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào xuất bản theo hướng xã hội hóa có kiểm soát, đảm bảo chất lượng nội dung và an toàn thông tin. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà xuất bản, tác giả, dịch giả, người làm nghề thông qua tăng cường thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ và bản quyền.

Trong kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ của dân tộc, hơn bao giờ hết, xuất bản cần khẳng định vai trò là lực lượng tiên phong trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, là nền tảng tri thức và sáng tạo, là nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Với bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng và tinh thần đổi mới, ngành Xuất bản Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên đồng hành cùng dân tộc trên hành trình xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, dân chủ, công bằng, văn minh và phát triển toàn diện con người.

_____________________

1. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề “Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, baochinhphu.vn, 25-11-2024.

2. Pearson tập đoàn xếp thứ 2 toàn cầu về doanh thu (7,98 tỷ USD) đã tập trung vào số hóa và AI như một trục chiến lược chính. Họ chuyển từ bán sách truyền thống sang cung cấp nền tảng kỹ thuật số toàn diện, bao gồm kỳ thi trực tuyến, khóa học kỹ năng nghề (workforce skills) và giải pháp học tập ảo.

3. Nhật Bản xác định xuất bản là một ngành nòng cốt trong hệ sinh thái công nghiệp văn hóa, vừa là kênh truyền bá tri thức và giá trị văn hóa, vừa là một phần không thể tách rời trong chuỗi sản xuất nội dung sáng tạo (content industry). Chính phủ Nhật Bản coi xuất bản là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế sáng tạo và đã ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ phát triển xuất bản trong khuôn khổ công nghiệp văn hóa quốc gia. Từ những năm 1990, Nhật Bản đã phát triển mô hình “media-mix”: từ một cuốn manga/ sách gốc, xây dựng hệ sinh thái sản phẩm đa phương tiện (game, phim, sản phẩm ăn theo...) giúp mở rộng giá trị xuất bản phẩm.

4. Năm 2022-2023, Việt Nam giữ vai trò là Chủ tịch của Hiệp hội Xuất bản Đông Nam Á (ABPA).

5. Ủy ban nội dung sáng tạo Hàn Quốc (KOCCA) và các cơ quan như Viện Văn học Hàn Quốc, Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc (LTI Korea), Chính phủ đầu tư mạnh vào các chương trình quảng bá, hỗ trợ dịch thuật, cấp học bổng, tổ chức hội sách quốc tế, hỗ trợ chi phí xuất bản ở nước ngoài. Hàn Quốc sử dụng xuất bản như một công cụ ngoại giao văn hóa mềm (soft power), thể hiện bản sắc dân tộc, lịch sử, triết lý phương Đông, đời sống hiện đại của người Hàn qua các tác phẩm văn học, sách thiếu nhi, sách lịch sử, ẩm thực… Tác phẩm Please Look After Mom (Hãy chăm sóc mẹ - Kyung-sook Shin) hay Kim Jiyoung, Born 1982 (Kim Jiyoung sinh năm 1982 - Nam-du Cho) đã tạo tiếng vang lớn tại các nước phương Tây, nhờ nội dung phản ánh xã hội nhưng giàu tính nhân văn, đồng thời góp phần thay đổi hình ảnh đất nước Hàn Quốc trong mắt quốc tế.

NGUYỄN NGUYÊN

Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành, Phó Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Lý luận Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương

Nguồn: Tạp chí VHNT số 615, tháng 8-2025

;