Sáng 25-11 tại TP.HCM, Viện Phim Việt Nam (Bộ VHTTDL) đã tổ chức Hội thảo "Phát huy giá trị tư liệu hình ảnh động lưu trữ trong tình hình hiện nay", nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, phổ biến và lan tỏa giá trị tư liệu hình ảnh động lưu trữ trước những thách thức.
Hội thảo có sự tham dự của các đại biểu: ông Phạm Cao Thái - Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ VHTTDL); bà Lê Thị Hà - Viện trưởng Viện Phim Việt Nam; TS Ngô Phương Lan - Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Phát triển Điện ảnh Việt Nam và các chuyên gia, nhà quản lý đã, đang hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh...

Quang cảnh Hội thảo
Tư liệu hình ảnh động bao gồm những tác phẩm điện ảnh (phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình)... được lưu giữ, bảo quản tại các cơ sở lưu trữ là một phần quan trọng của tư liệu nghe nhìn, di sản văn hóa, góp phần phục vụ giảng dạy, nghiên cứu, báo chí, sáng tạo nghệ thuật, truyền thông, phục dựng văn hóa và xây dựng bản sắc dân tộc. Lưu trữ, khai thác tư liệu hình ảnh động không chỉ giữ gìn, phát huy những giá trị lịch sử của ngày hôm qua mà còn khẳng định bản sắc văn hóa riêng của mỗi cộng đồng, dân tộc, nhất là trong kỷ nguyên số hiện nay.
Khai mạc Hội thảo, bà Lê Thị Hà - Viện trưởng Viện Phim Việt Nam nhấn mạnh, phổ biến, quảng bá giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của kho tư liệu hình ảnh động, nhất là các tác phẩm điện ảnh Việt Nam về đề tài chiến tranh cách mạng được xem là một yêu cầu cần thiết và mang tính chiến lược quốc gia. Hội thảo nhằm trao đổi, chia sẻ thêm những kinh nghiệm, các quy định về công tác có liên quan về giá trị của di sản điện ảnh, bảo quản và khai thác di sản điện ảnh, đặc biệt là cần phải có sự tương tác với công chúng mới phát huy được giá trị trong đời sống hiện đại. Đây cũng là mối quan tâm lớn của các đơn vị lưu trữ, trong đó có Viện Phim Việt Nam ở thời kỳ hướng đến phát triển Công nghiệp văn hóa.

Bà Lê Thị Hà - Viện trưởng Viện Phim Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
Khái quát về công tác khai thác, phát huy giá trị tư liệu hình ảnh động tại Viện Phim Việt Nam, TS Ngô Đặng Trà My - Phó Viện trưởng cho biết, Viện đang lưu giữ và bảo quản hàng vạn mét phim tư liệu, tài liệu quý hiếm của điện ảnh Việt Nam. Trong đó, bộ sưu tập gồm gần 20.000 tên phim, với khoảng hơn 80.000 cuốn phim 35mm, 16mm, hàng chục ngàn băng video các loại. Đặc biệt nổi bật trong đó là khối lượng lớn tác phẩm điện ảnh cách mạng Việt Nam kinh điển: Chung một dòng sông, Con chim vành khuyên, Vợ chồng A Phủ, Chị Tư Hậu, Đường về quê mẹ, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Bao giờ cho đến tháng Mười... cùng những tư liệu hình ảnh động vô giá gắn với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, kho lưu trữ các tài liệu kèm theo phim của Viện cũng đang lưu giữ 1.500 hồ sơ phim truyện Việt Nam, 2.030 hồ sơ phim tài liệu, 615 hồ sơ phim hoạt hình, hàng trăm hồ sơ về các nhà hoạt động điện ảnh, các vấn đề chung của điện ảnh…
Viện Phim Việt Nam đã rất nỗ lực trong công tác khai thác và phát huy giá trị của nguồn tư liệu hình ảnh động với tần suất cao, đa dạng, phục vụ đông đảo công chúng khắp mọi miền đất nước ; tích cực giới thiệu đến khán giả ở nước ngoài những tác phẩm điện ảnh Việt Nam lưu trữ, đặc biệt là phim về đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng; thường xuyên cung cấp tư liệu hình ảnh động lưu trữ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước phối hợp thực hiện khai thác, phổ biến; triển khai thử nghiệm phổ biến phim, tư liệu hình ảnh động lưu trữ trên không gian mạng internet... Như vậy, bằng nhiều phương thức trực tiếp và gián tiếp, nhất là trong khoảng 15 năm trở lại đây, ước tính Viện Phim Việt Nam đã giới thiệu khoảng 30.000 lượt tác phẩm, tư liệu hình ảnh động lưu trữ đến khoảng hơn 12.103.599 lượt công chúng trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, TS Trà My đã chỉ ra rằng, chỉ khoảng hơn 500 tên phim/tổng số gần 20.000 tên phim đang lưu trữ - được giới thiệu đến công chúng. Số lượng tác phẩm, tư liệu, tài liệu điện ảnh lưu trữ được giới thiệu đến công chúng còn ít so với khối lượng tư liệu hình ảnh động hiện đang được lưu trữ. Nguyên nhân là hoạt động tổ chức phục vụ khán giả trong nước thiếu tính định kỳ cố định, các chương trình giao lưu, tuần phim chuyên đề chưa thực sự sinh động, khiến công chúng tham gia có xu hướng giảm dần, chưa tạo được thói quen thưởng thức phim lưu trữ; việc giới thiệu phim Việt Nam lưu trữ ra nước ngoài rất ít ỏi, thậm chí gần như bị ngưng trệ trong giai đoạn 2020-2023; hoạt động phổ biến trên không gian mạng internet còn dừng ở bước thử nghiệm, không đáp ứng được nhu cầu công chúng số trong thời đại 4.0.
Những hạn chế này đến từ nhiều yếu tố: rào cản quy định pháp lý phức tạp về bản quyền và quyền sử dụng tư liệu điện ảnh, khiến việc khai thác trên môi trường số bị giới hạn; áp lực cạnh tranh khốc liệt từ các loại hình nghệ thuật và giải trí hiện đại, cùng nguồn lực kinh phí hạn chế và hệ lụy sau đại dịch.
Trước những thách thức khó khăn trong công tác phát huy giá trị tư liệu hình ảnh động lưu trữ, các đại biểu tham gia trình bày tham luận, thảo luận tại Hội thảo đã đưa ra đề xuất để biến kho phim lưu trữ trở thành “ngân hàng ký ức sống” và nguồn lực chiến lược cho “sức mạnh mềm” quốc gia.

TS Ngô Phương Lan - Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Phát triển Điện ảnh Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Khẳng định giá trị to lớn của kho di sản Điện ảnh Việt Nam, ví như “đất vàng ở Thủ đô” cần được khai thác và phát huy có hiệu quả theo định hướng bảo tồn và số hóa, công nghệ hóa di sản, TS Ngô Phương Lan - Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Phát triển Điện ảnh Việt Nam đưa ra kiến nghị cần khai thác sáng tạo kho phim, tận dụng sức hút từ phim Mưa đỏ phát triển đẩy mạnh dòng phim lịch sử, hậu chiến, đổi mới; tái sinh di sản bằng cách sáng tạo, kết hợp điện ảnh công nghệ thực tế ảo, thực tế tăng cường… tạo ra sản phẩm mới dựa trên nền tảng cũ; tích hợp di sản điện ảnh với du lịch điện ảnh, tour du lịch điện ảnh, điện ảnh cách mạng; phát triển thị trường và mô hình kinh doanh tôn vinh di sản; đào tạo nguồn nhân lực gằn với di sản...
TS Nguyễn Thế Hùng - nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ VHTTDL) đề xuất chiến lược kép nhằm “làm sống động” tư liệu. Thứ nhất là gìn giữ và nghiên cứu thông qua việc bảo quản tuyệt đối và hoàn thiện lý lịch cho từng bộ phim, xem chúng như hiện vật bảo tàng thông qua nghiên cứu bài bản, phối hợp với các nhà làm phim.Thứ hai là khai thác tiền hậu kỳ, tập trung thu hút thế hệ trẻ bằng cách khai thác những câu chuyện bên lề chưa từng được kể, từ hậu trường, chi tiết mạo hiểm qua điền dã và phỏng vấn, sau đó chuẩn bị nội dung số chất lượng cao để phân phối trên nền tảng mạng, dù điều này đòi hỏi nguồn lực khổng lồ.
TS Hà Thanh Vân- Trung tâm Xúc tiến Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, đề xuất 4 nhóm giải pháp trọng tâm mang tính đột phá: hoàn thiện cơ chế quản lý và hành lang pháp lý cho “di sản hình ảnh động”; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới (AI, VR/AR, blockchain) trong phục chế, lưu trữ và phổ biến; xây dựng chiến lược truyền thông- giáo dục - sáng tạo, đưa di sản điện ảnh vào đời sống đương đại; phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP), gắn bảo tồn di sản với công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo.
PGS,TS Trần Luân Kim - từng nhiều năm làm công tác quản lý ở Viện Phim Việt Nam - đã đưa ra gợi ý phát huy giá trị tư liệu lưu trữ bằng nhiều cách: dành riêng rạp chiếu phim lưu trữ, dựng phim mới dựa trên phim lưu trữ, trao đổi với các nước để nhận phim mới, dựa vào phim tư liệu để làm công trình nghiên cứu, thu hút nghiên cứu sinh và thạc sĩ viết luận án về phim lưu trữ...
Đề cập đến việc lan tỏa giá trị nhân văn qua điện ảnh Việt, từ bảo hộ quyền tác giả đến chiến lược thương mại hóa phim di sản, luật sư Lê Quang Vinh (Bross & Partners) nhận định để thương mại hóa phim di sản cần tháo gỡ rào cản tư duy, chuyển sang khai thác động. Thay vì bảo tồn tĩnh, lưu trữ trong kho không nguồn thu và lãng phí tài sản công thì nên chuyển sang khai thác động, chuyển số hóa, tái sinh để hàng triệu khán giả trẻ Việt Nam và thế giới... Luật sư đưa ra mô hình kiếm tiền từ phim di sản để tham khảo là có thể cấp phép bản quyền phim đơn lẻ (thời hạn 2-3 năm) hoặc theo gói 10 phim... để lấy phim nuôi phim tái đầu tư số hóa, phục chế kho phim, giảm gánh nặng ngân sách.
Nhìn chung, Việt Nam đang sở hữu kho di sản điện ảnh rất lớn. Do vậy, bảo quản, khai thác và phát huy giá trị di sản điện ảnh đang được lưu trữ và sắp được lưu trữ cần thiết phải có chiến lược trong dài hạn với sự quản lý, đầu tư của nhà nước và cả huy động các nguồn lực xã hội hóa.
XUÂN HƯỚNG - Ảnh: BTC
.png)



.jpg)

.jpg)
