Mỗi lần có dịp trở về thăm di tích lịch sử cách mạng Chiến thắng Kon Braih, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, thắp nén nhang cho các anh hùng liệt sĩ, tôi lại không khỏi bùi ngùi, xúc động tưởng nhớ đến các thế hệ cha, anh đi trước đã chiến đấu, hy sinh xương máu vì nền hòa bình, độc lập của nước nhà như ngày hôm nay. Tôi miên man suy nghĩ, di tích này có từ bao giờ? Những chiến công hiển hách của cha, ông đã diễn ra nơi đây ra sao khi mà trên bia đá của di tích chỉ còn ghi tên các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh và Tổ quốc ghi công các anh? Làn khói hương trầm lan tỏa vào hư không cùng với những suy nghĩ miên man đã thúc đẩy tôi đi tìm hiểu về lịch sử Di tích lịch sử cách mạng Chiến thắng Kon Braih này.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn 1953-1954), Đồn Kon Braih được địch xây dựng trên một quả đồi cao nằm ở hữu ngạn của dòng sông Đăk Snghé, trên trục lộ đường số 5 đi KonPlông - Quảng Ngãi, cách thị xã Kon Tum khoảng 30km. Ở phía Nam có địa hình chia cắt hiểm trở, nhiều con suối nhỏ ngăn cách rất khó tiếp cận, phía Tây bằng phẳng, thoai thoải thấp dần thuận lợi cho việc quan sát, chốt giữ. Con đường số 5 và cầu Kon Braih nối hai bờ Tây và Đông sông Đăk Snghé đều nằm dưới sự kiểm soát của địch. Cổng đồn được mở theo hướng Bắc và nối với đường số 5, khu vực trung tâm là cụm hầm nửa nổi, nửa chìm và hệ thống lô cốt. Lô cốt mẹ được xây dựng khá kiên cố bằng bê tông, cốt thép, có đường hầm liên thông với nhau. Từ cụm hầm trung tâm có nhiều hướng ra các hầm, lô cốt, ụ súng, công sự chiến đấu cá nhân chạy xung quanh đồn. Tiếp đến là hệ thống hầm chông, bẫy mìn và cột sắt thép gai. Lực lượng của địch chiếm đóng ở trong đồn gồm một trung đội trấn giữ. Đồn Kon Braih với địa thế như vậy, tỏ ra có nhiều lợi thế về mặt quân sự, thuận cho việc quan sát, kết hợp với đồn Măng Búk, Măng Đen tạo nên hệ thống pháo đài vững chắc để địch đưa quân đi càn quét, bắn phá các vùng căn cứ của ta và khống chế toàn bộ khu vực đường số 5 cũng như các vùng xung quanh trong thế vừa phòng thủ vừa tấn công rất lợi hại.
Đồn Kon Braih được thực dân Pháp xây dựng nhằm thực hiện một trong ba bước trong chiến dịch mang tên At - Lăng (Atlante) để đánh sâu vào vùng tự do Liên khu 5, hoàn thành mục tiêu đánh chiếm tự do Liên khu 5 của ta bao gồm các tỉnh Kon Tum, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Hoàn thành giai đoạn một của Kế hoạch Na - va của thực dân Pháp.
Vậy chủ trương của ta ngày đó như thế nào? Qua tìm hiểu, Kon Tum - Tây Nguyên được ta xác định có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng trong chiến dịch Đông - Xuân 1953-1954. Lúc này, Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã đề ra phương châm tích cực, mạnh bạo phát triển vào Tây Nguyên, trước hết là ở phía Bắc thuộc địa bàn Kon Tum, với mục tiêu nhằm làm thất bại một phần của Kế hoạch Na - va, Chiến dịch At - Lăng (Atlante) của thực dân Pháp.
Tháng 12 năm 1953, triển khai kế hoạch tiến lên Tây Nguyên, đồng chí Nguyễn Chánh - Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu làm tư lệnh Chiến dịch. Đông bắc Kon Tum làm hướng chính, các lực lượng của Trung đoàn 108, Trung đoàn 803 (thiếu tiểu đoàn 59), liên đoàn đặc công, các đơn vị pháo cối, phòng không, các đơn vị công binh, trinh sát, thông tin phối hợp với lực lượng địa phương thực hành tiến công theo hai bước:
Bước 1: Trong đêm N tiêu diệt cứ điểm Măng Đen và Măng Buk, phá thế phòng thủ của địch ở phía Đông Bắc của tỉnh Kon Tum, sau đó kéo địch từ Kon Tum ra chi viện để tiêu diệt và tiến đánh cứ điểm Kon Braih, uy hiếp thị xã Kon Tum.
Bước 2: Sau khi tiêu diệt cụm quân địch ở hướng đường số 5, phát triển tiến công tiêu diệt toàn bộ hệ thống cứ điểm địch từ Đăk Tô đến Đăk Glei và hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Kon Tum.
Đúng 23 giờ 23 phút ngày 27/1/1954, chiến dịch bắt đầu. Trên hướng chính Bắc Kon Tum, Trung đoàn 108 tấn công cứ điểm Măng Đen - cứ điểm kiên cố nhất và là xương sống cụm cứ điểm của địch ở Bắc Kon Tum, cách thị xã Kon Tum 60km. Sau 8 giờ chiến đấu ác liệt, ta làm chủ trận địa.
Ở hướng khác, trong đêm 27/1/1954, Tiểu đoàn 97 của Mặt trận Miền Tây phối hợp với Tiểu đoàn 89 (Trung đoàn 108) tiêu diệt cứ điểm Măng Buk. Tiểu đoàn 89 (Trung đoàn 803) tấn công Đồn Kon Braih. Khi Trung đoàn 108 tấn công Măng Đen thì Tiểu đoàn 59 còn cách Đồn Kon Braih khoảng 5 km. Địch đang ở Đồn Kon Braih được báo động, chúng đưa lực lượng ra trấn giữ.
Để tiêu diệt Đồn Kon Braih, Tiểu đoàn 59 gấp rút tiếp cận mục tiêu, các mũi trinh sát đi đầu phát hiện được địch đang phục kích, các Đại đội 4 và Đại đội 6 phải tìm đường tránh địch để nhanh chóng triển khai đội hình. Với quyết tâm đánh chiếm bằng được Đồn Kon Braih, các mũi đột phá khẩu của Tiểu đoàn 59 anh dũng ôm bộc phá lao lên đánh hàng phá rào, vượt hào chông đánh phá vào lô cốt, trước lưới lửa đạn từ lỗ châu mai bắn ra. Cửa đột phá chính đã mở, nhưng cửa đột phá thứ yếu chưa vào được. Đồng chí Trần Xưng - Trung đội phá khẩu thấy đơn vị còn vướng thép gai, dù lúc này đã bị thương nặng cả hai chân vẫn cố lết tới hàng rào cuối cùng, lăn mình nằm choàng lên hàng rào thép gai, lấy thân mình làm “thang mê” cho đồng đội xung phong lao vào đồn địch diệt lô cốt án ngữ, mở cửa cho đồng đội tiến công đồn.
Đến 6 giờ 30 phút, ngày 28/1/1954, ta làm chủ trận địa, lá cờ quyết chiến, quyết thắng đã phất cao giữa Đồn Kon Braih. Ta đã bắt sống gần 40 tên địch, trong đó có đại úy chỉ huy Pháp, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, làm chủ trận địa. Lực lượng vũ trang ta thương vong gần một trung đội, trong đó có tấm gương chiến đấu của đồng chí Trần Xưng - là chiến sĩ thi đua toàn quốc được Bác Hồ tuyên dương là “Cặp mắt sáng của Liên khu V” đã anh dũng ngã xuống trong giờ phút đánh mở cửa đầy ác liệt ấy.
Với chiến thắng Đồn Kon Braih, ta đã giải phóng một vùng rộng lớn ở phía Đông Bắc tỉnh Kon Tum và trên trục đường số 5 từ Kon Tum đi Kon Plông xuống Quảng Ngãi, phá vỡ hoàn toàn tuyến phòng ngự trên hướng này và tạo điều kiện quan trọng cho việc tiến đến giải phóng thị xã Kon Tum.
Chiến thắng Măng Đen, Măng Buk và Kon Braih có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần quyết định vào thắng lợi của Chiến dịch Bắc Tây Nguyên trong Đông - Xuân 1953 - 1954. Hệ thống phòng thủ của địch ở Kon Plông và toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên sụp đổ hoàn toàn. Cánh cửa tiến vào Bắc Tây Nguyên được mở toang, tạo thời cơ thuận lợi để tiến lên giải phóng huyện Đăk Tô, Đăk Glei và toàn tỉnh Kon Tum.
Tuyến phòng thủ Đông Bắc tiểu khu Kon Tum bị phá vỡ, cửa vào Bắc Tây Nguyên đã mở. Tư lệnh Nguyễn Chánh lệnh cho Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 đưa một bộ phận phát triển nhanh lên phía Tây uy hiếp, tiêu diệt các cứ điểm dọc theo Quốc lộ 14. Đồng thời, Trung đoàn 803 áp sát thị xã Pleiku, phục kích trên đoạn Pleiku - Kon Tum, tiến công ngay vào thị xã. Trong khi đó, chủ lực của bộ đội lại bắt đầu mũi tiến công lên Trung Lào và Hạ Lào. Bộ chỉ huy Pháp phải tạm ngừng Chiến dịch At - Lăng, đưa binh đoàn cơ động 100, xương sống của địch lên chống đỡ. Bộ phận tiền tiêu của chúng bị đánh ở ven thị xã Kon Tum.
Ngày 7/2/1954, tại thị xã Kon Tum, Tư lệnh Nguyễn Chánh điện cho Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ở Chỉ huy sở Mường Phăng (Điện Biên Phủ) thông báo Kon Tum đã hoàn toàn giải phóng.
Đánh giá kết quả và ý nghĩa của chiến thắng Kon Plông và Kon Tum, trong thư gửi cán bộ Liên khu 5, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thắng lợi Kon Tum là thắng lợi to lớn của ta trên chiến trường miền Nam, nó cũng là một trong những thắng lợi to lớn của ta trong mùa Xuân này trên chiến trường toàn quốc. Nó cũng là một đòn nặng đánh vào âm mưu của địch đối với miền Nam” .
Và để ghi nhớ những chiến công hiển hách của cha anh trong Chiến thắng Kon Braih lịch sử, nhiều công trình có giá trị về mặt khoa học lịch sử đã ghi chép về trận đánh oanh liệt cũng như di tích lịch sử cách mạng này: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum - tập 1, NXB Chính trị quốc gia -1996; Lịch sử Đảng bộ huyện Kon Plông, tập 1 - 2001; Lịch sử Trung đoàn 803 - NXB Quân đội nhân dân - 1999; Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng – tập 1 – BTLQK5 -1986…
Năm 2008, Sở VHTTDL Tỉnh Kon Tum sau khi tổ chức nghiên cứu đầy đủ, đã tiến hành lập hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định công nhận Di tích lịch sử cách mạng. Theo đó, ngày 1/6/2009, UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định số 198/QĐ-CTUBND Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh, thành phố đối với di tích lịch sử cách mạng Chiến thắng Kon Braih (thuộc Thôn 9, xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum).
Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, thế hệ trẻ như chúng tôi hôm nay chỉ còn biết đến những gì mà cha ông đã phải trải qua trong những năm tháng kháng chiến trường kỳ giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào qua lời kể của các ông, các chú, hay qua những trang sử sách hào hùng, những thước phim tư liệu lịch sử, di tích lịch sử cách mạng, tư liệu lịch sử được lưu trữ trong các bảo tàng… Và dù thời gian có trôi qua bao lâu đi chăng nữa thì những chiến công, những hy sinh xương máu của cha ông cho nền độc lập, hòa bình của Việt Nam hôm nay sẽ còn mãi mãi lưu truyền trong lịch sử.
PHẠM VIẾT THẠCH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 498, tháng 5-2022