
Nhà văn Bùi Việt Thắng - Ảnh: Lan Anh
NHẬN THỨC CHUNG VỀ VĂN HÓA, VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
Các quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được thể hiện toàn diện và sâu sắc trong Dự thảo văn kiện đại hội XIV của Đảng (đã công bố toàn văn trên các cơ quan truyền thông ngày 15/10/2025):
“Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam”.
“Xây dựng và phát triển văn học - nghệ thuật xứng tầm với lịch sử văn hóa dân tộc và tầm vóc của công cuộc đổi mới”.
“Phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa và tinh thần cống hiến của con người Việt Nam, để văn hóa thực sự trở thành nội sinh, động lực và hệ điều tiết phát triển đất nước”.
Vấn đề quan trọng và cấp thiết nhất hiện nay, theo chúng tôi, là ở chỗ giới khoa học và những người làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật cần thống nhất triệt để trong nhận thức vấn đề cốt lõi “Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam” là gì?
Khi giới khoa học xác định “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam bao hàm 4 giá trị nền tảng “Dân tộc - Dân chủ - Nhân văn - Khoa học”, theo chúng tôi, dễ hòa đồng với ưu việt của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới (dân tộc Hán, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật...). Cho nên, vấn đề bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tưởng chừng như đã giải quyết xong xuôi, thì vẫn trước sau là một vấn đề còn bỏ ngỏ, mở rộng đến vô biên trong cách tri nhận, lý giải và minh định. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Quốc Vượng xác định Một nét bản sắc văn hóa Việt Nam: khả năng ứng biến “Bàn về bản lĩnh - bản sắc (Identité) của dân tộc và văn hóa Việt Nam, cố giáo sư Cao Xuân Huy khả kính đưa ra một hình ảnh - biểu tượng: Nước, đưa ra một khái quát về triết lý Việt Nam: triết lý nước hay là Nhu đạo. (...). Tôi gọi cái bản lĩnh - bản sắc biết nhu, biết cương, biết công, biết thủ, biết “trông trời trông đất trông mây...” rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực “nhất thì nhì thục” ấy, là khả năng ứng biến của người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, của văn hóa Việt Nam” (Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, 2003, tr.33, 41). Vì thế, theo chúng tôi, bản sắc văn hóa Việt Nam từ một dư địa khả năng ứng biến nên mang tính tiếp biến hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả, theo cách nói bây giờ, các tinh hoa, tinh túy văn hóa cổ - kim, Đông - Tây (đặc biệt rõ nét trong thời hiện đại, thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI). Điều đặc biệt đáng nói hơn cả là, bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện sâu sắc và bền vững trong di sản Văn hóa dân gian (Folklore), được quan niệm như là cội nguồn và là suối nguồn tạo nên các di sản văn hóa, các vốn liếng văn hóa của dân tộc qua hàng nghìn năm trường tồn.

Bài hát Đào Liễu trong Anh trai vượt ngàn chông gai
ĐẾN HIỆN ĐẠI TỪ TRUYỀN THỐNG
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn các văn nghệ sĩ “Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu” (Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, 1995, tr.83), và “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới. (...). Nhưng đồng thời lại phải tránh nguy cơ trở thành những kẻ bắt chước.” (Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, 2010, tập 3, tr. 56).
Nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “Chúng ta phải học tập thế giới rất nhiều. (...). Nhưng dù có đọc hàng nghìn cuốn sách đủ các khuyh hướng của những người cầm bút thiên tài của thế giới cũng để trở về với mình, trở về với những vấn đề sinh tử trong cuộc sinh tồn của những con người Việt Nam, trở về dùng ngòi bút đào sâu vào nền văn hóa, tiếng nói triết lý dân gian thâm trầm, những thói tục, trở về với tất cả những gì vừa bộc lộ, vừa bí ẩn có hàng ngàn năm làm nên hình hài, trí thức và tâm hồn nhà văn của chính ta. Và cái hành trình đào sâu vào vẻ đẹp cũng như những giá trị tinh thần của dân tộc mình cũng là hành trình đến nền văn xuôi của chúng ta đi đến giao tiếp với thế giới. Tôi trộm nghĩ đấy là con đường để nền văn xuôi của chúng ta đạt tới tính hiện đại, và về điều này, ngòi bút văn xuôi đến bây giờ vẫn còn mới mẻ - Nam Cao đã chứng minh được ít nhiều” (Di cảo Nguyễn Minh Châu, Nxb Hà Nội, 2009, tr. 327-328). Ý kiến của nhà văn trùng phùng với quan điểm hiện đại và tiến bộ nghệ thuật “Đi hết dân tộc chúng ta sẽ gặp nhân loại”. Người nghệ sĩ sáng tạo trước hết phải gắn bó với dân tộc, đất nước, nhân dân, đồng bào của mình, theo cách diễn đạt của thi sĩ Xuân Diệu “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao” (Những đêm hành quân).
Hiện nay, đang diễn ra tình trạng “nhập cảng” các trào lưu, khuynh hướng sáng tác tân kỳ của thế giới phương Tây, dẫn đến cái gọi là “nhập siêu” theo cách xác định của giới nghiên cứu. Các chủ nghĩa (ism) Hiện sinh, Hậu hiện đại, Hậu thực dân, Phi lý, Phân tâm học, Ký hiệu học, Nữ quyền luận, Sinh thái học... đang nở rộ như nấm mọc sau mưa, tạo nên ban đầu là “cơn sốt nhẹ”, nhưng nay là “cơn sốt cao”, đặc biệt có hấp lực với người sáng tác, phê bình văn học trẻ tuổi. Hiện trạng này gợi tính chất “cũ người mới ta”, thể hiện một phương pháp/ thái độ tiếp biến văn hóa lệch chuẩn, thiếu tinh thần “gạn đục khơi trong”, thiếu vận dụng sáng tạo.
Nhà văn (nghệ sĩ ngôn từ) nếu muốn đạt tới tính hiện đại của tác phẩm do mình sáng tác, trước hết và sau hết hãy học tập các nhà cổ điển Việt Nam trong văn học thành văn, bác học (Thế kỷ X - XIX) từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Và cần nhất học trong suối nguồn bất tận văn học dân gian (thuộc phạm trù Folklore - Văn hóa dân gian); nếu muốn làm thơ lục bát hay hãy học hỏi ở ca dao; muốn viết truyện huyền ảo, huyền kỳ hãy học trong cổ tích, truyền kỳ, thần thoại. Lại nữa, muốn tiếp biến tinh hoa nhân loại thời hiện đại hãy học tập kinh nghiệm của các nhà thơ lãng mạn trong phong trào Thơ mới (1932-1945); muốn trở thành tác giả truyện ngắn tài ba hãy học nghệ thuật viết ngắn của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Bùi Hiển, Kim Lân, Tô Hoài; muốn trở thành tiểu thuyết gia hãy học Vũ Trọng Phụng; muốn trở thành cây viết tùy bút tài danh hãy học hỏi bậc thầy Nguyễn Tuân... Tấm gương học hỏi các nhà cổ điển Việt Nam đã đưa Xuân Diệu “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) trở thành một thi sĩ biết “đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ, biết đốt cháy trí tuệ đến thành trái tim”. Công trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2 tập, 1981-1982) của thi sĩ trở thành trước tác với người làm thơ cũng như người nghiên cứu, phê bình thơ thời hiện đại.

Văn học nghệ thuật đương đại xuất hiện nhiều sáng tác mới tiếp nối truyền thống và hiện đại - Ảnh: MV Bắc Bling
SÁNG TẠO TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT XỨNG TẦM VỚI LỊCH SỬ VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ TẦM VÓC CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Tác phẩm “đỉnh cao, xứng tầm, để đời”, theo lý thuyết và thực tiễn văn học, là tác phẩm trở thành cổ điển, có ý nghĩa mẫu mực, khó bắt chước, khó vượt qua (trong văn học thế giới và Việt Nam).
Tác phẩm đỉnh cao, xứng tầm, để đời hiện nay phải đáp ứng với yêu cầu vừa “xứng tầm với lịch sử văn hóa dân tộc” vừa xứng tầm với “tầm vóc của công cuộc đổi mới”, đó là một nhiệm vụ kép theo tinh thần bất bại, xét cả về hai phương diện lịch đại và đồng đại. Khát vọng của văn giới Việt Nam là có thể hiện diện tự tin trong tương lai gần trên bản đồ văn học thế giới, để xóa tan mặc cảm “tiếng Việt cô đơn” (!?). Văn học nghệ thuật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc còn cần nỗ lực đạt tới mục đích cao cả hơn “Đóng góp đối với văn minh nhân loại” (ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trong cuộc gặp gỡ với đại biểu văn nghệ sĩ, ngày 30/12/2024, tại Hà Nội; theo Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Bộ VHTTDL, Xuân Ất Tỵ, 2025). Xét trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập sâu rộng vào thế giới đa cực, đa phương hiện nay thì công cuộc quảng bá văn hóa, văn học nghệ thuật Việt Nam cần có chiến lược quốc gia, cần có nhiều những sứ giả văn hóa tận tâm, tận lực hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm một mục đích tối thượng xây dựng hình ảnh Việt Nam vốn có truyền thống “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi). Nhà văn hóa Hữu Ngọc là một bản lĩnh và tài năng trong lĩnh vực này nhưng dường như còn đơn độc (!?).
Những khó khăn đặt ra trước mắt các nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm văn học nghệ thuật, thuộc về yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan: Đây là thời đại của các nhân tố phi truyền thống, của những biến đổi mau lẹ bất thường, phi thường khiến cho các thang giá trị không còn ở thế thượng phong, nhất thành bất biến. Phạm trù “cổ điển” (mẫu mực, không thể bắt chước, khó vượt qua) không còn đủ sức đóng khung, minh định các giá trị vĩnh viễn, trái lại nó mang tính thường hằng, hiện sinh, tiện dụng (thực dụng). Thời đại của không gian mạng, kinh tế số, công nghệ 4.0 và AI đang làm thay đổi quyết liệt, tận gốc rễ các giá trị tưởng như bền vững, đây là thời của là biến số thay thế hằng số, theo cách tư duy của toán học. Trong các yếu tố gây khó và cản trở người nghệ sĩ sáng tác có nhân tố công chúng thưởng thức nghệ thuật ngày càng trở nên không thuần nhất, phồn tạp, thậm chí dễ bị chia rẽ. “Công chúng nghệ thuật cũng cần được giáo dục” (M. Gorki). Giới Mỹ học (khoa học về cái đẹp), nói thẳng ra là chưa thực hiện được vai trò “hướng đạo”, giáo dục thẩm mỹ tích cực cho người thụ hưởng nghệ thuật, tình trạng tự phát vẫn còn phổ biến.
Về chủ quan, khoảng cách giữa thực tiễn đời sống và người nghệ sĩ ngày càng tối đa (maximum). Không còn kiểu nghệ sĩ như là “Tấm gương phản chiếu cách mạng Nga” (nhận xét của V. Lenin về L. Tolstoy, tác giả kiệt tác Chiến tranh và hòa bình), hoặc giả “Nhà văn là thư ký trung hành của thời đại”, tác phẩm là “bách khoa thư”. Vì thế, người nghệ sĩ luôn luôn phải “nhận đường” như một cách thế tồn tại sáng tác. Một động thái tư tưởng dường như chỉ diễn ra với các văn nghệ sĩ từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 để thực sự hòa nhập với cuộc kháng chiến cứu quốc. Văn hóa (không phải là học vấn) của nghệ sĩ đang còn là một vấn đề đặt ra quan thiết. Ở đây có thể hiểu là “tâm” và “tầm” của nghệ sĩ chưa đủ tầm đón đợi, tiên tri sự vận động và phát triển vũ bão của đời sống xã hội và con người trong một thời đại gia tốc.
KẾT LUẬN (HAY LÀ KIẾN NGHỊ)
Hiện, chúng ta đang quyết liệt và khẩn trương giải quyết nhiều điểm nghẽn về cơ chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Chính sách văn hóa về nguồn nhân lực, có thể coi là khâu đột phá điểm nghẽn. Trong đào tạo nguồn nhân lực, có lúc, có nơi chúng ta mới chỉ quan tâm nhiều đến số lượng hơn là chất lượng (trong khi quy luật của nghệ thuật trọng “quý hồ tinh bất quý hồ đa”).
Tận cùng của văn hóa là con người. Nhưng để đào tạo ra nhân tài trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, chúng ta cần có kế hoạch đồng bộ, liên thông, liên ngành để tìm kiếm, bồi dưỡng, có chính sách đãi ngộ thoả đáng để phát triển những chủ thể sáng tạo văn học nghệ thuật thực sự có tài năng về lĩnh vực nhạy cảm nhất của văn hóa. Có như thế chúng ta mới hiện thực hóa được chủ trương của Đảng.
BÙI VIỆT THẮNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 626, tháng 11-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
