Hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách để phát triển công nghiệp văn hóa

Chiều 29-10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026… Theo Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (Ninh Bình), sau một thời gian triển khai chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, Việt Nam đã hình thành và mở rộng nhiều lĩnh vực then chốt, nhiều sản phẩm văn hóa đã khẳng định thương hiệu Việt Nam trên bản đồ khu vực.

Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (Ninh Bình) phát biểu thảo luận tại Hội trường

Phát biểu thảo luận tại Hội trường, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh nhấn mạnh, công nghiệp văn hóa đã được Đảng và Nhà nước xác định là ngành kinh tế quan trọng, vừa góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, mở rộng không gian sáng tạo và khẳng định vị thế kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Nghị quyết số 33 ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương và Chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp Văn hóa đến năm 2030 đã đặt nền tảng cho giai đoạn phát triển mới.

Đến nay, sau một thời gian triển khai chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, Việt Nam đã hình thành và mở rộng nhiều lĩnh vực then chốt như: Điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, thời trang, quảng cáo, trò chơi điện tử, thiết kế sáng tạo, thủ công mỹ nghệ, xuất bản, du lịch văn hóa, và đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn và di sản văn hóa số. Nhiều sản phẩm văn hóa đã khẳng định thương hiệu Việt Nam trên bản đồ khu vực, thể hiện qua các sự kiện quốc tế, lễ hội điện ảnh, hay chương trình tài năng trẻ.

Tuy nhiên, quy mô thị trường văn hóa sáng tạo của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 4% GDP, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 7-10% của các quốc gia trong khu vực. Hạ tầng sáng tạo chưa đồng bộ. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thị trường lao động sáng tạo còn hạn chế. Nhiều địa phương chưa có chiến lược riêng cho phát triển công nghiệp văn hóa. Công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực và liên kết vùng chưa rõ nét.

Để ngành công nghiệp văn hóa được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và hoàn thành được mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và đến năm 2025 đóng góp 8% GDP của cả nước như đã đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về Văn hóa giai đoạn 2025-2035, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh đề xuất 5 giải pháp và 4 kiến nghị:

Về giải pháp, đại biểu nhấn mạnh, một là hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách, ban hành Luật về phát triển công nghiệp văn hóa để tạo khung khổ pháp lý đồng bộ, rõ ràng. Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả, nhà sáng tạo, các chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế, đất đai và chuyển đổi số. Tích hợp các chính sách phát triển văn hóa, du lịch, truyền thông, và công nghệ sáng tạo trong một khung chiến lược quốc gia.

Hai là, phát triển hệ sinh thái sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, hình thành các trung tâm sáng tạo, hỗ trợ khởi nghiệp văn hóa, ươm mầm ý tưởng dự án nghệ thuật. Đổi mới giáo dục nghệ thuật, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường và chuyển đổi số. Tập trung đào tạo tài năng và nguồn nhân lực chất lượng cao theo các Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là: Đề án đào tạo tài năng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030 và Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài đến năm 2030.

Ba là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, phát triển hạ tầng số phục vụ sản xuất, phân phối và quảng bá sản phẩm văn hóa. Ứng dụng công nghệ AI, thực tế ảo trong bảo tồn di sản, du lịch văn hóa và nghệ thuật biểu diễn.

Bốn là, liên kết vùng và xã hội hóa đầu tư, xây dựng chuỗi giá trị văn hóa, du lịch, sáng tạo theo vùng, gắn sản phẩm văn hóa với thương hiệu địa phương. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, quỹ đầu tư và cộng đồng nghệ sĩ tham gia phát triển công nghiệp văn hóa theo mô hình đối tác công - tư (PPP).

Năm là, phát triển sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong hội nhập quốc tế, đưa sản phẩm văn hóa Việt ra thế giới thông qua các lĩnh vực phim ảnh, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, ẩm thực, văn học và sản phẩm văn hóa số. Tăng cường quảng bá, tổ chức các tuần lễ văn hóa, lễ hội sáng tạo quốc tế tại Việt Nam, góp phần xây dựng hình ảnh đất nước năng động và sáng tạo.

Đồng thời, đại biểu cũng kiến nghị, đối với Nhà nước, xác định công nghiệp văn hóa là một ngành kinh tế trọng điểm, cần đưa chỉ tiêu tăng trưởng ngành vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Đầu tư trọng điểm cho hạ tầng sáng tạo, bảo tồn di sản, chuyển đổi số văn hóa, và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đối với địa phương, theo đại biểu, mỗi tỉnh/thành phố cần xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa riêng, gắn với đặc trưng bản sắc, di sản và thế mạnh địa phương. Hình thành cụm ngành sáng tạo và các trung tâm biểu diễn, thiết kế, du lịch văn hóa.

Đối với cộng đồng doanh nghiệp và xã hội, đại biểu cho rằng, cần khuyến khích đầu tư, tài trợ và hợp tác quốc tế trong sáng tạo nghệ thuật. Xây dựng văn hóa tiêu biểu, tiêu dùng hiện đại, tôn vinh sản phẩm trí tuệ Việt.

Đối với giới trí thức và nghệ sĩ, “cần phát huy vai trò hạt nhân sáng tạo, truyền cảm hứng đổi mới. Nâng tầm giá trị thẩm mỹ và nhân văn trong các sản phẩm văn hóa” – đại biểu nhấn mạnh.

NGỌC BÍCH - Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

;