Văn hóa chính trị (VHCT) là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa và chính trị của nước ta hiện nay. Trong bối cảnh Việt Nam đổi mới tư duy và thúc đẩy xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như hiện nay sẽ giúp việc nâng cao nhận thức về VHCT được đóng vai trò chính trong sự phát triển chính trị và càng trở thành vấn đề cần được làm rõ hơn bao giờ hết. Bài viết tập trung phân tích những vấn đề có tính lý luận về khái niệm và vai trò của VHCT được đặt trong sự tương tác gắn liền bối cảnh chính trị của Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm VHCT
Người đầu tiên đưa ra khái niệm VHCT là nhà chính trị học người Mỹ G.Almond. Tiếp cận dưới góc độ so sánh hệ thống chính trị, Almond đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa chính trị của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các thành viên của dân tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm tới các khách thể chính trị” (1); từ đó, khái niệm VHCT này đã được giới chính trị học thế giới quan tâm nghiên cứu. Khái niệm VHCT tiếp tục được nhấn mạnh, với một góc độ tiếp cận cụ thể hóa hơn, trong công trình nghiên cứu Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế của nhà chính trị học người Anh L.Pye định nghĩa: “văn hóa chính trị là hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể” (2); hoặc VHCT được hiểu dưới góc nhìn của Phạm Hồng Tung là “…dùng để chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã hội của các hệ thống chính trị. Văn hóa chính trị liên quan tới những bộ phận khác nhau của ý thức chính trị, những phong thái, những lối nghĩ và ứng xử điển hình của những nhóm xã hội hoặc toàn xã hội. Văn hóa chính trị bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá nhân của từng cá thể, tiềm ẩn trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những động cơ bẩm sinh của hành vi chính trị và cả trong những hình thức bộc lộ có tính chất biểu tượng và những ứng xử chính trị cụ thể” (3). Dưới góc độ tiếp cận này, VHCT không chỉ là các giá trị của tri thức chính trị, thái độ chính trị mà còn bao gồm những dạng thức của hành vi và sự tham dự chính trị.
Bên cạnh đó, việc kế thừa các kết quả nghiên cứu của thế giới, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã có sự nhìn nhận rõ hơn về VHCT; trong đó có rất nhiều quan điểm được đưa ra trong các cách định nghĩa về khái niệm này. GS Song Thành cho rằng: “Văn hóa chính trị là một bộ phận cấu thành của văn hóa, kết tinh trong đó cả trí thức, lý tưởng, đạo đức và năng lực hoạt động chính trị, có ảnh hưởng đến thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng xã hội nhất định. Văn hóa chính trị được hình thành từ kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa chính trị hiện đại, dưới sự chi phối của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp hay đảng cầm quyền” (4). Ở một góc độ khác, GS Đinh Xuân Dũng khẳng định “Văn hóa chính trị là một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội, thể hiện ở tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của tổ chức và con người chính trị; thể hiện rõ trong tổ chức thiết chế và thể chế chính trị; thể hiện trong tổ chức hoạt động chính trị” (5) hoặc “Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa, ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Là tổng hòa các giá trị của tư tưởng, hành vi và các thiết chế chính cụ thể phù hợp với tiến bộ xã hội, do con người sáng tạo ra và bồi đắp trong suốt quá trình ứng xử với quyền lực nhà nước. Văn hóa chính trị biểu hiện qua các mô hình tổ chức thể chế chính trị, các chuẩn mực, phẩm chất, năng lực tham dự chính trị của mỗi cá nhân và cả cộng đồng” (6). Nhìn ở phương diện tổng quát, khái niệm VHCT đều được quy về “là khái niệm dùng để chỉ những giá trị được sáng tạo ra trong lĩnh vực hoạt động chính trị” (7).
Như vậy, có thể hiểu VHCT theo những nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp khác nhau, song, không thể thiếu những yếu tố tiêu biểu, cốt lõi làm nên nội hàm của nó. Trong số các yếu tố cốt lõi ấy, có tri thức chính trị, ý thức chính trị, niềm tin chính trị, tình cảm chính trị, kinh nghiệm chính trị và năng lực hành động chính trị. Các yếu tố tiêu biểu và cốt lõi này gắn bó rất chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau tạo thành phẩm chất, nhân cách, thúc đẩy sự tu dưỡng bản thân và năng lực chính trị của một cá nhân, một tổ chức, một đảng phái chính trị; đồng thời, chúng cũng góp phần để giúp một cá nhân hay một tổ chức hiện thực hóa các mục đích chính trị của mình.
2. Vai trò của VHCT đối với sự phát triển hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, VHCT không chỉ là sự kết tinh của những giá trị vật chất và tinh thần tại thời điểm đó mà còn hàm chứa những giá trị truyền thống trong giai đoạn lịch sử trước đó (những giá trị đã được các thế hệ trước tạo ra). Chính vì vậy, VHCT có sự tương tác và ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, trong đó, có những ảnh hưởng cơ bản như sau:
Thứ nhất, VHCT có khả năng định hướng, điều chỉnh các hành vi của con người và các quan hệ xã hội. Một yếu tố cấu thành VHCT tiêu biểu là nhận thức chính trị đúng đắn về mục tiêu lý tưởng, giai cấp cầm quyền và các nhà lãnh đạo chính trị có thể xây dựng được đường lối chính trị, nhằm hình thành các tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn theo mục tiêu chính trị đặt ra. Cùng với trình độ VHCT xác định, con người chính trị có thể chủ động hành động theo những lý tưởng đã được chọn, phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Đặc biệt, trên nền tảng VHCT cao, giai cấp cầm quyền có khả năng phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan; nhân tố cá nhân - nhân tố cộng đồng; nhân tố bên trong - nhân tố bên ngoài; hướng hoạt động xã hội theo những mục tiêu chính trị đã xác định, đồng thời có những điều chỉnh mục tiêu, phương hướng thực hiện phù hợp với xu thế và những điều kiện, hoàn cảnh mới. Những yếu tố không chỉ có tính định hướng đối với một nhóm người mà có khả năng điều chỉnh định hướng nhận thức và hành vi của cả cộng đồng và xã hội, thậm chí, còn có thể triệt tiêu những mầm mống hành vi cực đoan, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định chính trị và xã hội.
Như vậy, VHCT vừa là những hình thức quy chuẩn có tính kỷ luật để mọi người tuân thủ, vừa là hệ thống tư tưởng có tính thuyết phục, cảm hóa, là ý thức văn hóa, tinh thần nhân văn trong mỗi con người, đặc biệt là đối với những cán bộ đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Đối với họ, nhất là với những người có vị trí là lãnh đạo, quản lý, ý thức về VHCT sẽ giúp họ thấy được trách nhiệm trong chấp hành nguyên tắc, kỷ luật, pháp luật. Đồng thời, các giá trị VHCT cá nhân sẽ khiến họ ý thức rõ hơn về trách nhiệm của mình trước sự phát triển của tổ chức, của dân tộc; nhận thức rõ trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân và tự thấy sự cần thiết phải gương mẫu. Nếu nhìn nhận VHCT ở góc độ là hệ chuẩn giá trị khoa học - cách mạng, thì những giá trị của VHCT còn có vai trò đấu tranh, phản bác, loại bỏ, chống lại những suy nghĩ và hành động trái đạo đức, vi phạm kỷ luật, pháp luật; hướng con người đến những việc tốt đẹp vì lợi ích tập thể, trong đó sẽ bao gồm cả lợi ích của cá nhân mình.
Thứ hai, VHCT tích cực có thể nâng cao nhận thức và trình độ tri thức chính trị của cộng đồng. Một trong những thành tố quan trọng của VHCT là ý thức chính trị được con người lựa chọn tiếp nhận và biểu hiện ra trong quá trình tham gia các hoạt động chính trị. Dưới góc độ tiếp cận đó, VHCT sẽ bao gồm trình độ giác ngộ khoa học về chính trị, khả năng nắm vững các tri thức, nhận thức đúng bản chất của lợi ích và quyền lực chính trị, biết phân biệt sự khác biệt, động cơ, thái độ và hành vi trong các hoạt động chính trị. Vì thế, VHCT là sự tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị, động cơ thúc đẩy họ vươn tới những hành động chính trị một cách tự giác phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, vấn đề xây dựng VHCT trở nên đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ cán bộ các cấp trong hệ thống chính trị của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, là cơ sở quan trọng để cán bộ, công chức có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
Thứ ba, là VHCT có khả năng thúc đẩy quá trình tổ chức và quản lý xã hội. VHCT của giai cấp lãnh đạo có thể được biểu hiện trong việc tổ chức, kiện toàn hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và trong kết cấu của đời sống xã hội. Xã hội dựa trên nền tảng VHCT dân chủ tích cực sẽ mở ra khả năng giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi nguồn lực cho xã hội phát triển. Trong xã hội phát triển, một xã hội có VHCT, mỗi cá nhân trong đó, sẽ ý thức đầy đủ về vị trí cũng như nghĩa vụ, bổn phận của mình trong hệ thống quyền lực chính trị của xã hội; mặt khác, xã hội cũng phải tạo ra và hoàn thiện cơ chế để mỗi cá nhân công dân có thể tham gia một cách tích cực, tự giác vào các công việc liên quan đến hệ thống chính trị và xã hội của đất nước. Nhờ đó, hoạt động chính trị trở thành công việc thường xuyên và phổ cập đối với tất cả mọi người. Đó là quá trình xã hội hóa về chính trị, từng bước thể hiện bản chất dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa hiện đại.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, chúng ta phải đảm bảo xây dựng được hệ giá trị VHCT của Đảng một cách chuẩn mực. Điều đó phụ thuộc vào VHCT cá nhân của các cán bộ, đảng viên, công chức, đặc biệt là những cán bộ cấp cao, những đảng viên giữ vai trò chủ trì, người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong Đảng, Nhà nước và xã hội. Ở chiều ngược lại, VHCT của Đảng và hệ thống chính trị sẽ tác động, ảnh hưởng rất lớn đến cách ứng xử, phương pháp công tác, lối tư duy, năng lực hành động của cán bộ, đảng viên, công chức các cấp. Nói cách khác, xây dựng VHCT của tổ chức chính là nâng tầm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị theo một hệ giá trị chuẩn mực tích cực; xây dựng VHCT là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đủ năng lực, uy tín, đạo đức, phục vụ Đảng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các mặt hoạt động quan trọng của thế giới. Tuy nhiên, trong chính bản thân các hoạt động đó lại chất chứa đầy những mâu thuẫn, “bất định”, “bất ổn”, “khó lường”. “Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn” (8) Đặc biệt, sự hội nhập quốc tế tuy sâu rộng nhưng các nước đang phát triển hoặc kém phát triển còn gặp rất nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức và cạnh tranh gay gắt về các mặt như chiến lược, thương mại, khoa học, công nghệ, quân sự… Trong bối cảnh phức tạp như vậy, hệ thống chính trị nói chung và VHCT của đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là lãnh đạo trong hệ thống chính trị nói riêng, nếu không hội đủ tri thức chính trị, nghĩa là thiếu tầm nhìn xa, không hiểu biết sâu sắc và thiếu sự nhạy bén mang tầm chiến lược, thì rất dễ rơi vào tình thế bị động, không tiên liệu được những hệ lụy từ những “biến cố chính trị” trên thế giới. Theo đó, để giảm bớt và khắc phục tối đa những bất lợi, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, phải có tầm hiểu biết không chỉ đủ rộng, đủ sâu mà còn cần kịp thời về tình hình chính trị - xã hội, trong đó có văn hóa địa - chính trị thế giới, từ đó xác định “đúng và trúng” những nguy cơ, thách thức đặt ra với Việt Nam. Đồng thời, khi văn hóa đạo đức, đặc biệt là VHCT mang bản chất tiến bộ sẽ góp phần quyết định và ngày càng củng cố sự bền vững của chế độ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội (9).
Thứ tư, VHCT có thể thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con người, hình thành nhân cách công dân, xây dựng được những tấm gương về nhân cách lãnh đạo, đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị. VHCT được biểu hiện rõ qua giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ (cá nhân với cá nhân, đồng nghiệp, đồng cấp, cấp trên với cấp dưới; cá nhân với tổ chức; cá nhân với xã hội trên các vấn đề thuộc về lợi ích). Một trong những biểu hiện của hình thức này là văn hóa tranh luận, văn hóa đối thoại. VHCT của từng cá nhân bộc lộ qua quan điểm giai cấp, lập trường chính trị, khí chất, năng lực trí tuệ, trình độ tư duy, dấu ấn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong, nhân cách... của mỗi người, từ mỗi công dân bình thường đến các chính khách, các nhà lãnh đạo, quản lý nắm trong tay quyền lực chính trị. VHCT xét dưới góc độ cá nhân, có thể bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo của các cán bộ, công chức, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Toàn bộ tri thức, tình cảm, niềm tin của cá nhân cũng là cội nguồn cho hoạt động sáng tạo, đồng thời thông qua hoạt động sáng tạo mà tri thức được bổ sung, kiểm chứng và nâng cao, tình cảm thêm sâu sắc, niềm tin được củng cố và hành động trở nên tự giác hơn, mãnh liệt hơn, văn hóa hơn. Trình độ, sự giác ngộ về mục tiêu lý tưởng và niềm tin vào lý tưởng của mỗi cá nhân; những điều kiện thuận lợi cả về cơ chế và những điều kiện vật chất kỹ thuật do xã hội tạo nên sẽ là nguồn động lực cho những hoạt động sáng tạo có tính tích cực. Đồng thời, thông qua các phong trào chính trị, bản lĩnh chính trị của cá nhân công dân đã được rèn luyện, thử thách để hình thành nhân cách công dân, nhân cách của những người hoạt động chính trị. Trình độ tổ chức của tổ chức thể hiện nguyên tắc tổ chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị.
VHCT làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội giống như sức mạnh của văn hóa. “Đó là loại sức mạnh không dựa vào quyền lực hay ép buộc mà thông qua cảm hóa, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác của các tầng lớp xã hội. Việc xây dựng văn hóa chính trị phải chú trọng đồng thời cả ba phương diện: giá trị xã hội được lựa chọn, năng lực chính trị và trình độ phát triển về văn hóa chính trị của chủ thể chính trị” (10). Do vậy, đặc điểm của chính trị nước ta về VHCT có một nét nổi bật đó là phải sáng tạo. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ. Đặc biệt, tính sáng tạo này càng thể hiện rõ nét khi đất nước, dân tộc đứng trước những thời điểm khó khăn, quyết định vận mệnh của dân tộc và chính nét sáng tạo ấy đã đem lại một tầm vóc, một vẻ đẹp văn hóa của nền chính trị Việt Nam.
Kết luận
VHCT luôn mang những giá trị cốt lõi và có vai trò huyết mạch trong mỗi hệ thống chính trị. Đó là tổng thể những giá trị được hình thành trong thực tiễn chính trị, thể hiện nhận thức về chính trị, lý tưởng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay. Tri thức chính trị, ý thức chính trị, niềm tin chính trị, tình cảm chính trị, kinh nghiệm chính trị và năng lực hành động chính trị là những yếu tố cốt lõi làm nên văn hóa chính trị của chế độ, thể chế. Mỗi cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là cán bộ cấp chiến lược phải là những “hạt nhân” - biểu hiện sinh động cho mặt bằng và chiều sâu của VHCT. VHCT thể hiện trước hết ở nhân cách, làm thành bản sắc của người làm chính trị với tư cách là một thành viên của cộng đồng hoạt động trong lĩnh vực chính trị. Thiếu VHCT trong hoạt động chính trị, trong thực thi chính sách sẽ rất khó thành công.
______________
1. Almond G., Comparative Political System (Hệ thống chính trị so sánh), Tạp chí Chính trị, số 8, tr.12-15.
2. Lucian Pye, Political Culture (Văn hóa chính trị), Bách khoa toàn thư Thế giới về Khoa học xã hội, số 12, London, Macmillan, 1968, tr.218.
3. Dẫn theo Phạm Hồng Tung, Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr.22.
4. Song Thành, Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2010, tr.86.
5. Đinh Xuân Dũng, Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.121.
6. Nguyễn Hữu Lập, Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh giá trị và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015, tr.37.
7. Nguyễn Duy Quỳnh, Một cách tiếp cận văn hóa chính trị, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, tháng 6-2021, tr.63.
8. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.169.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn, Bàn về văn hóa chính trị, tuyengiao.vn, 30-3-2020.
10. Phạm Huy Kỳ, Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, tapchicongsan.org.vn, số 652, 8-6-2018.
LÊ THỊ KHÁNH LY - DƯƠNG HÀ MY
Nguồn: Tạp chí VHNT số 536, tháng 6-2023