• Thông tin tư liệu > Tư liệu trong nước

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA QUÂN SỰ VIỆT NAM

Văn hóa quân sự Việt Nam là sản phẩm được kết tinh lâu dài trong lịch sử dựng nước, giữ nước, giữ vai trò nền tảng tinh thần to lớn trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc. Nghiên cứu bản sắc văn hóa quân sự Việt Nam, tìm ra những giá trị cốt lõi, bản chất, sự ổn định trong tổ chức, hoạt động đấu tranh vũ trang trong hàng ngàn năm của dân tộc có ý nghĩa vô cùng to lớn. Điều này không chỉ cho thấy sức mạnh của dân tộc trong lịch sử giữ nước mà còn giúp chúng ta định hướng tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc XHCN hiện nay.

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRONG CÁC TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Quán triệt quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong các nhà trường quân đội, trọng tâm là ở các học viện, trường sĩ quan (HV, TSQ) hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN VĂN HÓA NHÀ DÀI CỦA TỘC NGƯỜI Ê ĐÊ Ở ĐẮC LẮC

Xã hội ngày càng phát triển thì sự ra đời của các đô thị ngày càng nhiều. Việc đô thị dần dần thay thế nông thôn, ảnh hưởng, tác động tới các vùng ven đô, vùng núi, vùng sâu, vùng xa... có thể coi là một xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại. Nhưng sự tác động của đô thị hóa đến văn hóa các tộc người hiện nay đang là một vấn đề cần quan tâm đặc biệt. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập tới sự tác động của đô thị hóa đến nhà dài - một thiết chế văn hóa truyền thống của tộc người Ê đê ở Đắc Lắc hiện nay.

VĂN HÓA BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Văn hóa bảo vệ tổ quốc (VHBVTQ) là nguồn lực nội sinh để hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần bảo vệ quyền sống, quyền bình đẳng, hạnh phúc của con người, bảo vệ lợi ích chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện hiện nay, VHBVTQ có nội hàm rất rộng, được phát triển, mở rộng cả về nội dung, tính chất. Đó là sự gặp gỡ, hòa quyện, kết tụ giữa truyền thống và hiện đại, ngày càng được nâng cao, phát triển, sáng tạo không ngừng, hình thành nên những giá trị VHBVTQ trong giai đoạn mới như: truyền thống yêu nước, tự lực tự cường, anh dũng bất khuất, quyết chiến quyết thắng; sự đoàn kết thống nhất ý chí, hành động của toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

ĐẶC TRƯNG, GIÁ TRỊ DI TÍCH TIỀN ĐÔNG SƠN Ở LƯU VỰC SÔNG HỒNG

Tiền Đông Sơn là thời kỳ trước, phát triển trực tiếp lên văn hóa Đông Sơn. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn văn hóa phát triển từ Phùng Nguyên qua Đồng Đậu đến Gò Mun, có niên đại cách đây khoảng 4000 - 2800 năm trước CN. Giai đoạn văn hóa Gò Mun nằm ở bước phát triển cao nhất của hệ thống các di tích Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng, một khúc chuyển quan trọng sang văn hóa Đông Sơn. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi phát hiện di chỉ Phùng Nguyên mở đầu giai đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn, đến nay đã nghiên cứu hàng trăm di tích thuộc giai đoạn văn hóa này. Để hiểu biết toàn diện về di tích cần phải nghiên cứu cả một hệ thống các di vật. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đề cập về đặc trưng, giá trị của các di tích Tiền Đông Sơn.

VAI TRÒ CỦA NHÀ TRƯỜNG TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG KHƠME Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Chính sách bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số là một nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc ở nước ta nhằm đảm bảo quyền bình đẳng về mặt văn hóa giữa các dân tộc, xây dựng nền văn hóa thống nhất trong đa dạng ở Việt Nam. Dân tộc Khơme là dân tộc sống chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với dân số khoảng 1,2 triệu người, có nền văn hóa riêng đặc sắc và ngôn ngữ riêng. Trong những năm qua, chính sách bảo tồn thông qua việc dạy và học ngôn ngữ Khơme, tăng cường sử dụng ngôn ngữ Khơme đã được triển khai, thực hiện, trong đó các trường cao đẳng, đại học ở khu vực này cũng có những đóng góp nhất định.

XÂY DỰNG Y ĐỨC HỌC VIÊN TẠI HỌC VIỆN QUÂN Y

Y đức là đạo đức nghề nghiệp, có vị trí, vai trò quan trọng, là bộ phận cơ bản cấu thành nên phẩm chất, nhân cách của người thày thuốc. Ngay từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại, cách đây hơn 2000 năm, Hyppocrate, người được coi là ông tổ của ngành y đã nêu lên cơ sở đạo lý mà người làm nghề y phải tuân theo, tuyên thệ trước khi bước vào nghề. Ông chỉ rõ: “Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh, tùy theo khả năng, sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu, bất công, tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư, cần thiết, dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh” (1).