Tây Nguyên, vùng đất đại ngàn hùng vĩ không chỉ nổi bật với cảnh quan thiên nhiên núi rừng hoang sơ mà còn là nơi lưu giữ một kho tàng văn hóa đặc sắc, độc đáo bậc nhất cả nước. Từ Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, hay đến Đắk Nông, Lâm Đồng đều là mái nhà chung của nhiều dân tộc thiểu số như Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, M’nông, Xơ Đăng, Cơ Ho,... Mỗi tộc người nơi đây đều mang trong mình những giá trị văn hóa riêng, đậm đà bản sắc và gắn bó máu thịt với thiên nhiên, cộng đồng, tín ngưỡng truyền thống. Đặc biệt, lễ hội là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên. Gắn liền với chu kỳ mùa màng, vòng đời con người và tín ngưỡng dân gian, lễ hội phản ánh mối quan hệ sâu sắc giữa con người - thiên nhiên - thần linh.
Lễ cúng cơm mới
Một trong những biểu tượng đặc trưng nhất của văn hóa Tây Nguyên là cồng chiêng, nhạc cụ không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tín ngưỡng. Được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là âm nhạc mà còn là phương tiện giao tiếp với thần linh, là nơi linh hồn con người hòa quyện với vũ trụ. Trong tất cả các nghi lễ như mừng lúa mới, lễ trưởng thành, lễ bỏ mả, lễ cưới,... tiếng cồng, tiếng chiêng không chỉ đóng vai trò nhạc cụ mà còn là hồn cốt của văn hóa cộng đồng. Tuy vậy, tùy vào từng dân tộc mà các vùng Tây Nguyên lại có cách đánh và hòa âm cồng chiêng riêng, tạo nên bản sắc âm nhạc riêng biệt và phong phú. Nếu ở dân tộc Ba Na, bà con thường sử dụng dàn chiêng 6 đến 12 chiếc thì người Ê Đê thiên về chiêng cồng kết hợp với trống, kèn; còn người M’Nông có chiêng dùng riêng cho tang lễ, khác với chiêng mừng mùa.
Nét đẹp văn hóa Tây Nguyên còn thể hiện rõ nét trong kiến trúc nhà ở: nhà rông và nhà dài. Nhà rông có mái cao vút, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của các dân tộc Ba Na, Xơ Đăng. Đây là nơi tổ chức lễ hội, hội họp và là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, sức mạnh cộng đồng. Trong khi đó, người Ê Đê lại nổi bật với kiến trúc nhà dài, in đậm dấu ấn của chế độ mẫu hệ, nơi nhiều thế hệ phụ nữ cùng sinh sống. Nhà dài càng dài, càng thể hiện sự sung túc, gắn kết của đại gia đình.
Các lễ hội truyền thống của người Tây Nguyên mang đậm tính tâm linh, tín ngưỡng và gắn liền với vòng đời con người - từ khi sinh ra đến lúc về với tổ tiên. Tiêu biểu như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ cưới, lễ trưởng thành, lễ bỏ mả,...
Lễ bỏ mả là một trong những nghi lễ lớn và thiêng liêng nhất trong đời sống văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên như Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng,... Đây không chỉ là một nghi thức tiễn biệt người đã khuất mà còn là biểu hiện sâu sắc của quan niệm sống - chết, của niềm tin tâm linh và sự gắn kết cộng đồng. Lễ bỏ mả được gọi là lễ “chia tay cuối cùng” giữa người sống và người chết. Sau lễ bỏ mả, người thân không còn chăm sóc mồ mả, vì linh hồn được coi là đã “đi xa”, để tránh bị linh hồn quấy rối.
Tục cưới xin mẫu hệ khác biệt hoàn toàn với xã hội phụ hệ truyền thống. Người Ê Đê và M’Nông duy trì chế độ mẫu hệ, trong đó phụ nữ là người chủ động hôn nhân, con cháu theo họ mẹ thể hiện vai trò trung tâm trong gia đình và đời sống xã hội. Khi hỏi cưới, gia đình cô gái đến nhà trai với lễ vật cầu hôn, nếu được đồng ý, sẽ chọn ngày lành tháng tốt làm lễ cưới. Sau đó, chú rể về sống ở nhà vợ và nhà dài sẽ được mở rộng thêm gian mới cho đôi vợ chồng mới.
Lễ mừng lúa mới là dịp dân làng tạ ơn thần lúa sau mùa gặt và cầu mùa màng được bội thu. Đây là một trong những lễ hội quan trọng nhất trong năm. Người lễ sẽ chuẩn bị cơm mới, rượu cần, thịt gà, heo... mang đến tế lễ tại nhà rông hoặc nhà trưởng làng sau đó sẽ múa xoang, cồng chiêng và ăn uống chung.
Lễ bỏ mả
Tục cúng bến nước thể hiện tín ngưỡng tôn trọng thiên nhiên, gìn giữ nguồn nước quý giá. Lễ cúng bến nước là hành động tri ân và mong muốn bến nước luôn dồi dào, trong sạch. Người lễ sẽ dọn dẹp, trang trí bến nước và dâng gà, cơm, rượu cần cho thần nước, rước nước vào làng, chia nước cho mọi người để được gặp may mắn.
Tục xăm mình, cà răng là những nghi lễ trưởng thành, thể hiện bản lĩnh, lòng dũng cảm và khát khao hòa nhập cộng đồng của người Tây Nguyên. Tuy nhiên, hiện nay, chỉ còn thấy ở một số nhóm nhỏ. Tục xăm mình dành cho những thanh niên trai tráng, hình xăm thường là hình thú, hoa văn thần thoại để thể hiện sức mạnh của nam giới. Tục cà răng, mài răng cho đều lại thường dành cho phụ nữ độ tuổi cập kê.
Nhắc đến Tây Nguyên, không thể quên đây là vùng đất của những sử thi anh hùng - những bản anh hùng ca truyền miệng như Đam San, Xinh Nhã, Đăm Di,... Sử thi là một hình thức văn học truyền miệng, kể lại các câu chuyện lịch sử, thần thoại, truyền thuyết, phản ánh đời sống, niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh của các dân tộc Tây Nguyên. Đây được coi là kho tàng văn hóa đồ sộ và độc đáo bậc nhất Việt Nam. Những câu chuyện sử thi không chỉ mang tính giải trí mà còn là kho tàng tri thức cộng đồng, phản ánh khát vọng vươn lên, tinh thần chiến đấu và cái nhìn nhân văn về thế giới xung quanh. Được kể bằng lời văn có nhịp điệu, có thể kéo dài hàng trăm đến hàng nghìn câu. Và thường do các nghệ nhân (được gọi là "khan", "pơ tao") diễn xướng vào ban đêm, bên bếp lửa hòa cùng ca hát, diễn trò và âm nhạc cồng chiêng, trống. Sử thi còn có vai trò giáo dục luật tục, gắn với các dịp lễ hội, nghi lễ cộng đồng.
Có thể nói, văn hóa Tây Nguyên là một bức tranh đa sắc màu, hòa quyện giữa con người - thiên nhiên - tâm linh, thể hiện qua âm thanh cồng chiêng vang vọng, những mái nhà rông sừng sững và các nghi lễ linh thiêng đậm chất huyền bí. Giữa nhịp sống hiện đại, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống ấy không chỉ là trách nhiệm của người Tây Nguyên mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Bởi chính những giá trị ấy đã làm nên một Tây Nguyên độc đáo, thiêng liêng và đầy sức sống.
Bài và ảnh: HƯƠNG GIANG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 606, tháng 5-2025