Ngày thơ ở Văn Miếu
Đổi mới thơ là một nhu cầu thường trực trong sáng tác của mỗi nhà thơ và của bản thân nền văn học. Nhưng sự đổi mới đó không tự nhiên xuất hiện mà bao giờ cũng dựa trên những hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhằm đáp ứng những nhu cầu của bạn đọc và những đòi hỏi mà cuộc sống đặt ra. Ở nước ta, từ sau 1975, thực sự đã xuất hiện một trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thơ. Đây cũng là một lĩnh vực nảy sinh nhiều quan niệm, thiên hướng và đấu tranh nhau gay gắt, để hình thành một nền thơ đa dạng, phong phú với những tín hiệu thẩm mĩ phức tạp hơn trước rất nhiều.
Khái lược về những chuyển động của thơ Việt từ khi Thơ Mới ra đời
Nửa đầu thế kỷ 20, khi cuộc tiếp xúc văn hóa Việt - Pháp diễn ra mạnh mẽ, phong trào Thơ Mới đã ra đời và làm một cuộc thay đổi toàn diện, mãnh liệt, nhào nặn lại nền thơ Việt Nam. Các nhà thơ Việt Nam thoát thai khỏi Thơ Đường truyền thống đã ngự trị hơn một ngàn năm để đến với thể thơ tự do. Và đặc biệt là thoát khỏi sự kìm hãm của lễ giáo phong kiến, chủ trương biểu lộ cái tôi cá nhân, thể hiện những cung bậc cảm xúc phong phú, mãnh liệt với ngòi bút thăng hoa chưa từng có mang đến một phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa với hệ thống tín hiệu thẩm mĩ mới, ngôn ngữ mới và giọng điệu mới với sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi nổi tiếng như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…
Đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, do yêu cầu của Cách mạng, nhà thơ phải phát huy vai trò công dân, phục vụ kháng chiến, phục vụ tổ quốc. Như một tất yếu, thơ của thời kỳ 1945-1975 lấy đề tài Tổ quốc, Cách mạng, Người lính làm trung tâm. Thơ cổ vũ sự hy sinh cho sự nghiệp chung, nhà thơ phải lấy sứ mệnh công dân làm chính trong sự nghiệp sáng tác của mình. Tuy nhiên, ngay cả trong hoàn cảnh đó, trong dòng chảy chính của thơ trữ tình chính luận cách mạng cũng đã có nhiều tác giả nêu vấn đề đổi mới thơ và đã tạo nên những dấu ấn riêng như: Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm…
Cuộc sống hòa bình đặt ra nhiều vấn đề chung và riêng. Sau những năm hậu chiến, cả xã hội Việt Nam lại bước vào công cuộc đổi mới toàn diện từ kinh tế, văn hóa đến chính trị, xã hội… và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong bối cảnh đó, văn học nói chung, thơ nói riêng thực sự đã có một cuộc chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các phương diện và đã xuất hiện một lớp nhà thơ mới tiên phong trên thi đàn.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong buổi ra mắt tập thơ Lò mổ
Đa dạng hóa đề tài và chất liệu thẩm mĩ
Nếu như từ 1945-1975 đề tài chính của thơ là về chiến tranh cách mạng và người lính, thì sau 1975 thơ hướng về đời thường với tất cả những cảnh đời bình dị nhất. Dòng chủ lưu trong thơ không còn là cảnh chiến trận và cảm thức tụng ca mà là phản ánh những cung bậc tình cảm của con người trong đời thường, cảnh sinh hoạt gia đình, cảnh quê hương xứ sở, những đổi thay và đau đớn:
“Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Nhưng màu hoa thời tôi thì có khác
Xe đến công trường bay mù bụi cát
Màu hoa thường lấm bụi suốt mùa khô
Lúa ngậm đòng lụt bão đến xô bồ
Nhà đang dựng thiếu xi măng, thiếu gạch
Bao đám cưới chưa có phòng hạnh phúc
Mây ngổn ngang lam lũ những dáng người”
(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống)
Những dòng thơ trên đánh dấu một cách nhìn mới, thơ đã bắt kịp những chuyển động mới của đời sống, đã thôi không còn tô hồng hiện thực. Chất liệu trong thơ không còn là những cái đẹp được chưng cất từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà chắt lọc từ cuộc sống ngổn ngang, những lo toan vất vả của con người trong một đất nước đang được xây dựng lại.
Thơ giai đoạn này không chỉ phản ánh đời sống bình thường mà còn tự vấn, đặt ra những vấn đề tư tưởng, trong một giai đoạn đòi hỏi phải có một sự nhận đường mới:
“Cái hèn của kẻ mạnh
Cái ác của kẻ yếu
Cái thèm của kẻ thừa
Cái tham của kẻ thiếu
Dân tộc sợ dân tộc
Con người thù con người
Đã bao đời
Bóng đêm xoay ngược
Vẫn là bóng đêm”
……….
“Ra khỏi bóng đêm
Đi tới buổi sáng
Không có bóc lột ăn hiếp
Mỗi dân tộc cần đến mỗi dân tộc
Mỗi con người cần đến mỗi con người
Thưa bạn
Tôi nghĩ cách mạng là như vậy
Mở ra buổi sáng
Mới vỡ nghìn hang ổ
Của những gì cuộn nhau trong bóng đêm”
(Cách mạng - Nguyễn Đình Thi)
Ở trường hợp khác, trong bài thơ Nói với con của Thạch Quỳ, thông qua lời tâm sự của người cha với người con của mình, tác giả đã tế nhị đặt lại một cái nhìn, hướng đến tư duy thực tiễn, thực chất, tránh căn bệnh huyễn tưởng, xa rời sự thật:
“Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn!”
Đặc biệt, thơ sau 1975 hướng về đề tài gia đình, về những tình cảm thân thương gắn bó giữa con người với con người. Đề tài tình yêu trở thành một đề tài lớn, có sức lay động và được hầu hết nhà thơ chú ý.
Chất liệu thẩm mĩ trong thơ Việt về sau này ngày càng mở rộng. Có thể thấy trong thơ không chỉ còn là những hình ảnh đẹp đẽ về trăng, hoa, tuyết, núi sông như trong thơ xưa, hay những hình ảnh anh hùng cách mạng trong thời chiến tranh mà mang hơi thở của đời thường, thậm chí cả những hình ảnh “xấu xí” mà trong thơ xưa cấm kỵ… Những yếu tố đó dẫn đến một bức tranh thơ phức tạp, nhiều màu vẻ thậm chí đối lập nhau gay gắt, cá nhân hóa cao độ và phân mảnh đối tượng thưởng thức thành nhiều xu hướng khác nhau. Thơ của giai đoạn này thể hiện nhiều trăn trở, hướng đến phản tỉnh bản thân và phản tỉnh xã hội, thể hiện dấu ấn cá nhân và cách nhìn độc lập của nhà thơ trước đời sống.
Đổi mới thi pháp, tư duy nghệ thuật
Đây là điểm căn bản tạo nên diện mạo mới của thơ sau 1975. Ở giai đoạn này, thơ Việt Nam dần tiếp cận với những xu hướng sáng tạo trên thế giới và tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật, dịch chuyển thi pháp thơ Việt theo quỹ đạo hiện đại hơn.
Nếu thơ thời kỳ 1945-1975 chủ yếu mang màu sắc tụng ca, có thông điệp rõ ràng, liền mạch, ngôn từ dễ hiểu, hướng đến đối tượng là đại chúng rộng lớn, thì ngược lại, giai đoạn sau 1975 thơ dần dần có xu hướng hướng nội, như là lời tâm sự của cá nhân về chính cuộc đời của họ, là sự bộc bạch những suy tư thầm kín, những tưởng tượng và liên tưởng độc đáo. Thơ của giai đoạn này, tiếp nối tinh thần của Thơ Mới ở việc đề cao cá nhân, đề cao bản thể, nhưng có những chuyển biến vượt ra ngoài quỹ đạo của Thơ Mới thời kỳ trước, với những chuyển động phức tạp cả về tư tưởng lẫn phương pháp thể hiện.
Điều đáng nói là thơ sau 1975 được đổi mới bởi chính các nhà thơ thế hệ trước như: Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên… dần dần thu được thành tựu và xuất hiện những tên tuổi mới để lại dấu ấn độc đáo được đông đảo bạn đọc chú ý như: Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Lãng Thanh…
Qua sáng tác của các tác giả tiêu biểu đó, ta hình dung một số điểm chính về tư duy nghệ thuật của các nhà thơ đổi mới qua các xu hướng như sau:
Xu hướng đào sâu vào bản thể cá nhân, không chỉ thể hiện tầng ý thức mà thơ còn đi sâu vào vô thức, bản năng, tâm linh, sự tranh đấu, chất vấn nội tại trong bản thân con người. Điều này làm cho thơ đương đại là sự phản ánh sâu xa và phức tạp nhất về chính bản thân con người mà những thời kỳ trước đây chưa khai thác hết.
Chẳng hạn như những câu thơ sau là sự thể hiện tính phân mảnh, sự chất vấn nội tại của con người trong trạng thái cô đơn tuyệt đối:
“Từng mẩu tháng năm quay lại nhìn ta
Trên con đường thẳm sâu mờ mịt
Hồn ta đã gọi ta
Những tiếng nồng nàn đớn đau tuyệt vọng
Ta tới hay lùi
Ta còn hay mất sau gió bụi thời gian?”
(Nhưng chiếc lá non tươi đã rụng - Thiên Sơn)
Xu hướng đổi mới giọng điệu, làm cho câu thơ nhiều khi dài ra và mang yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, tựa như những câu nói bình thường, tước bỏ đi nhiều hình ảnh mĩ miều, chỉ còn lại cái vẻ bình thường như chính cuộc sống mà nó thể hiện. Về điểm này ta có thể thấy ở sáng tác của rất nhiều nhà thơ, thậm chí có người viết cả thơ văn xuôi và coi đó như một loại thể khá phổ biến trong sáng tác của họ. Những câu thơ sau đây của Nguyễn Phong Việt là một ví dụ:
“Tại sao ta chọn người này mà không là người đó
cũng như giữa nước chanh và nước đá
vì thói quen hay vì điều gì mà chính ta nhiều khi cũng không rõ
để rồi ta trượt dài xuống vực sâu...
Ta chọn người này vì đã bước bên cạnh ta dài lâu
ta chọn người này vì một đôi lần ta được chia sẻ
ta chọn người này vì có một ngày mưa ta được về trong chiếc dù xa lạ
ta chọn người này vì nghĩ rằng ta đã mắc nợ
một điều gì đó không thể gọi tên...”
(Người này và người đó - Nguyễn Phong Việt)
Xu hướng mở rộng trường liên tưởng, làm cho những câu thơ cạnh nhau nhưng nói về những hiện thực rất khác nhau và buộc người đọc phải bất ngờ, phải suy ngẫm nhiều hơn để tìm ra sự hợp lý, sự liền mạch của mỗi bài thơ:
“Những con rắn thủy táng trong rượu
Linh hồn chúng bò qua miệng bình cuộn quanh đáy chén
Bò tiếp đi… bò tiếp đi qua đôi môi bạc trắng
Có một kẻ say gào lên những khúc bụi bờ
Một chóp mũ và một đôi giày vải
Mắt lơ ngơ hoang hoải đến chân trời
Nhóm u uất trong những vòm tháp cổ
Người suốt đời hoảng hốt với hư vô
Như đá vỡ, như vật vờ lau chết
Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình
Kinh hãi chảy điên cuồng như lửa liếm
Ngửa mặt cười trong tiếng khóc mộng du”
(Trong quán rượu rắn)
Từ chuyện những con rắn bị “thủy táng” đến “những vòm tháp cổ”, đến “tiếng khóc mộng du” là những ký hiệu nghệ thuật xa cách nhau được đặt trong một trường liên tưởng với những khoảng mờ, đứt gãy, nhưng vẫn tạo nên một tín hiệu thẩm mỹ chung cho bài thơ.
Sự dung hợp, kết tinh các trường phái nghệ thuật lớn trên thế giới vào thơ đang là xu hướng ngày càng phát triển. Trong thơ sau 1975, chúng ta thấy rõ dấu vết của chủ nghĩa hiện thực, siêu thực, phi lý, chủ nghĩa hậu hiện đại, nghệ thuật thị giác… ảnh hưởng đến sáng tác của các nhà thơ khá nhiều. Không nhà thơ nào tuyên ngôn về chủ nghĩa mà mình theo đuổi, nhưng qua sáng tác của họ, ta thấy được ý thức vận dụng các trào lưu nghệ thuật mới nhằm làm mới thơ mình. Trường ca Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ điển hình. Về bút pháp, tác phẩm này biểu lộ tính phức tạp đặc biệt với sự dung chứa nhiều xu hướng của thơ hiện đại, yếu tố phi truyền thống, cá nhân hóa cao độ, đánh dấu một dấu mốc trong cuộc dấn thân đầy mạo hiểm và không mệt mỏi của ông trên con đường cách tân thơ.
Cách tân và hình thành các thể loại thơ
Trong cuộc tìm kiếm vô tận trên con đường đổi mới, các nhà thơ đã kiên trì tìm kiếm những hình thức thể loại phù hợp, trong đó, tập trung vào cách tân các thể loại sẵn có và các hình thức thể loại mới.
Trong thể loại trường ca đã diễn ra một sự tìm tòi đáng ghi nhận. Chẳng hạn như nhà thơ Hữu Thỉnh với trường ca Biển, Nguyễn Quang Thiều với trường ca Lò Mổ đã chứng tỏ thể loại thơ này vẫn đang được đổi mới không ngừng. Nếu so với các trường ca trước đây của Hữu Thỉnh hay các trường ca thời chống Mỹ thì hai trường ca được nhắc đến ở trên đã rất khác. Ở đây, các tác giả không kể lại một câu chuyện đơn thuần theo thời gian tuyến tính, không dựng lên một không gian theo chiều rộng mà biến trường ca thành một tổng phổ. Biển được dựng theo nguyên lý của một bản giao hưởng: mỗi lời sóng như một bè âm thanh cất lên và lan ra, từ đó tác giả phản ánh những mảng màu của đời sống và tâm tưởng, của suy tư và triết luận. Lò mổ sử dụng các yếu tố của nghệ thuật thị giác, siêu thực để tạo nên sự đa dạng các hình thức kết cấu và liên tưởng, sự hình thành các loại không gian khác nhau (không gian hiện thực, không gian tâm tưởng, không gian tâm linh)…
Một số tác giả trẻ như Lãng Thanh, Trịnh Sơn thực hành tìm tòi trong việc tạo ra các bài thơ dài, theo hình thức: bài thơ trong bài thơ. Ở đó, bài thơ lớn được kết cấu gồm các bài thơ nhỏ nối tiếp nhau tạo nên một dạng liên văn bản. Đây cũng là một thể nghiệm khá sinh động và làm phong phú thêm các dạng thức thể loại thơ thời kỳ đổi mới.
Không chỉ cải cách trên những thể loại sẵn có, một số tác giả đang cố gắng định hình thể loại thơ mới. Chẳng hạn như Bằng Việt chủ trương thể thơ năm câu. Ông chia sẻ: “Tôi nghiệm thấy, con số 5 trong văn hóa phương Đông là con số rất đặc biệt. Ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tạo nên thế giới. Trong âm nhạc có ngũ cung; ngôi sao có 5 cánh… Vả lại, trong thơ Đông Tây nói chung, có thơ tứ tuyệt (4 câu); Thơ Haiku (3 câu), thất ngôn bát cú (8 câu), thể thơ 5 câu không có sự trùng lặp về thể loại. Có thể sẽ không có một quy định cụ thể về niêm luật, nhưng thơ phải có tính nhạc có cấu trúc nội tại tạo thành một chỉnh thể thống nhất”. Hay nhà thơ Phan Hoàng đang thể nghiệm thể thơ mới 1-2-3 độc đáo (mỗi bài chia thành 3 đoạn, gồm 6 câu thơ)… Thể thơ mới có tồn tại được với thời gian và dần được các tác giả thực hiện nay không chúng ta còn phải đợi thời gian, nhưng ý thức đổi mới, tìm tòi là một phẩm chất thi sĩ đáng được ghi nhận.
Tóm lại: Trong năm mươi năm qua, bằng sự nỗ lực của các thế hệ nhà thơ, thơ Việt Nam đã làm một cuộc chuyển mình mạnh mẽ vượt thoát qua quỹ đạo của thơ chống Mỹ, đa dạng hóa đề tài, chủ đề tư tưởng, hướng đến hiện thức mới của con người và đất nước trong hòa bình; đổi mới tư duy nghệ thuật và thi pháp… Thơ Việt đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Tuy nhiên, thời đại cạnh tranh toàn cầu về mặt văn hóa ngày càng mạnh mẽ và các hình thức hưởng thụ văn hóa mới ngày càng phong phú đặt thơ vào tình trạng khó khăn khi lượng độc giả đã không ngừng suy giảm. Điều đó đặt các nhà thơ Việt vào một yêu cầu gắt gao hơn. Làm thế nào để thấu hiểu những nguyện vọng sâu xa của con người trong thời đại? Làm thế nào để thơ vẫn là tiếng nói tình cảm, là sự sẻ chia tâm sự của con người? Làm thế nào để thơ dựng lên được gương mặt tinh thần của thời đại, vừa kết tinh những giá trị và sự sáng tạo mang bản sắc dân tộc vừa có thể ảnh hưởng nhiều hơn vào sự phát triển của văn học thế giới? Đó là những câu hỏi riết róng mà mỗi nhà thơ chân chính đều trăn trở và dấn thân.
_______________
Tham luận tại Hội thảo "Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025) do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6/2025
THIÊN SƠN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 614, tháng 7-2025