Nhà viết kịch Hoàng Luyện và con gái Xuân Hồng.
(Ảnh trong bài do gia đình cung cấp)
Tháng Tư lại về, cũng là dịp tưởng niệm 25 năm nhà viết kịch Hoàng Luyện rời xa cõi tạm. Nhắc tới ông là nhắc tới một cây bút trọn đời gắn bó với sân khấu kịch hát dân tộc, một nhân cách nghệ sĩ rất đáng trân trọng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của sân khấu cách mạng giai đoạn thập niên 60 - 80 của thế kỷ XX.
Nhà viết kịch Hoàng Luyện có đóng góp lớn nhất chính là ở giai đoạn Cải lương Bắc bắt đầu hình thành và phát triển theo phong cách riêng - một lưu phái Cải lương Bắc. Sau khi tiếp nhận, biến chuyển hình thức sân khấu kịch hát mới lạ từ Nam Bộ đưa ra, hình thức sân khấu Cải lương đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của sân khấu cũng như của công chúng thời đó và đã mau chóng phát triển trên đất Bắc. Dấu ấn kịch bản của ông để lại cho Cải lương ngày đó là những kịch bản hay, được nhiều đoàn dàn dựng như Chử Đồng Tử - Tiên Dung (1957); Bà mẹ bên sông Hồng (1959); Nắng tháng Tám (1970); Kim Đồng (1976); Vó ngựa trong mây (1983); Giấc mộng hoa đào (1987)…Nhiều kịch bản Cải lương được đưa lên sàn diễn đã góp phần không nhỏ, giúp những tên tuổi ngày ấy như NSND Ngọc Dư, Khánh Hợi, NSƯT Lệ Thanh, Bích Được… tỏa sáng, trở thành những ngôi sao Cải lương Bắc và góp thêm vào danh mục các vở diễn để Cải lương Bắc khẳng định một xu hướng phát triển lành mạnh, làm thanh lọc thể loại kịch hát ngay từ ngày đầu đã bị gán cho là “ủy mị, sướt mướt, mê-lô”…
Nhà viết kịch Hoàng Luyện
Nhà viết kịch Hoàng Luyện được nhiều người làm nghề cảm phục, yêu mến bởi ông là một con người đầy đam mê, nhiệt huyết với nghệ thuật. Tên thật của ông là Phạm Vũ La, sinh trưởng tại Hưng Yên - vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng đồng thời cũng là địa phương thuộc chiếu Chèo Đông nổi tiếng. Mang trong mình truyền thống nghệ thuật, đồng thời có thêm lửa cách mạng từ những ngày đầu hoạt động bí mật, Hoàng Luyện đã tham gia đội quân cách mạng từ khi còn rất trẻ, ông kiên định với sự nghiệp chung của dân tộc. Hoạt động cách mạng từ khi còn trẻ (1943), sự nghiệp văn chương gắn với ông, đem lại cho ông nhiều vị trí hoạt động thú vị. Ông từng là chủ bút báo Tỉnh, cán bộ tuyên huấn Khu, nhiệm vụ tuyên truyền cùng với năng khiếu văn chương đã thúc đẩy ông viết thơ ca hoạt cảnh, những vở ngắn (Chèo và Cải lương) để phục vụ kịp thời phong trào du kích ven tả ngạn sông Hồng. Năm 1960, từ Tuyên huấn khu Tả Ngạn, Hoàng Luyện chuyển đến Bộ Văn hóa (nay là Bộ VHTTDL), làm việc tại Vụ Nghệ thuật Sân khấu cho tới khi nghỉ hưu (năm 1991). Từ khi chính thức về công tác tại Bộ Văn hóa, ông đã sáng tác nhiều vở kịch hát. Ông chắt lọc từ những trải nghiệm cá nhân trong cuộc kháng chiến chống Pháp - đầy gian nguy nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan. Đồng thời, ông còn khai thác kho tàng văn hóa dân gian để khắc họa những tấm gương sáng về ứng xử, nhân tình thế thái… những bài học luôn còn nguyên giá trị vì tính nhân văn.
Kịch bản dài đầu tiên của ông được dàn dựng là Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Ngay khi ra mắt, kịch bản ra mắt đã được 5 đoàn Cải lương miền Bắc dàn dựng và biểu diễn, trở thành cái tên trong kịch mục biểu diễn thành công của các đơn vị này nhiều năm. Tiếp đó, kịch bản Bà mẹ sông Hồng đưa những điều tác giả chứng kiến và trải nghiệm khi hoạt động cách mạng thời kháng chiến chống Pháp, kịch bản được coi là tiêu biểu của cây bút Hoàng Luyện. Đây cũng là kịch bản được nhiều đoàn dàn dựng nhất. Nhưng biểu diễn thành công và đem lại dấu ấn sâu đậm trong kịch mục của đơn vị phải kể đến Đoàn Cải lương Kim Phụng khi Chử Đồng Tử - Tiên Dung trở thành vở diễn truyền thống của đơn vị này suốt hơn hai chục năm, qua nhiều thế hệ diễn viên với trên 2.000 đêm diễn.
Hình ảnh trong vở Cây gậy thần hay Thiên duyên huyền tích
Những kịch bản sau này của ông tiếp tục thu nhận được nhiều thành công trên con đường khẳng định tài năng của một biên kịch chuyên nghiệp, có khả năng nhìn nhận sâu sắc một vấn đề, khai thác tốt những trải nghiệm trong cuộc đời hoạt động cách mạng tích cực, tuy gian khó mà vẫn luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Ông tìm kiếm, đãi cát tìm vàng từ thực tế của mình, chắt lọc từ vốn sống cũng như có được con mắt xanh của nhà văn hóa khi nhìn thấy những hào quang sâu trong lớp trầm tích của văn học dân gian, từ dã sử. Các kịch bản khai thác từ thực tế sống như Bà mẹ sông Hồng, Nắng tháng Tám, Kim Đồng… hay những kịch bản như Chử Đồng Tử - Tiên Dung, Giấc mộng hoa đào… không những được dàn dựng ngay từ khi kịch bản được công bố mà mãi cho tới sau này, khi tình hình đất nước đã có nhiều thay đổi, những kịch bản đó vẫn tiếp tục được dàn dựng.
Có thể kể tới hai kịch bản được chuyển thể sang sân khấu Chèo là: Bà mẹ sinh thành, Đoàn Chèo Thanh Hóa dựng năm 1961 và Công chúa Tiên Dung, Đoàn Chèo Hải Hưng đưa lên sàn diễn năm 1990; hay kịch bản Chèo Chử Đồng Tử - Tiên Dung viết năm 1957 của ông đã được 5 đoàn cải lương chuyên nghiệp ở miền Bắc dựng diễn suốt mấy năm, diễn ở đâu cũng thu hút đông đảo bà con đến xem. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, thêm ba đơn vị Cải lương miền Nam tiếp tục dàn dựng vở diễn này.
Vở Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm của tác giả Hoàng Luyện đoạt Huy chương Vàng Liên hoan Sân khấu Chèo toàn quốc 2022
Đặc sắc nhất phải kể tới kịch bản Bà mẹ Sông Hồng là những trải nghiệm thực tế của bản thân tác giả ở vùng hậu dịch thời kháng chiến chống Pháp. Đây là câu chuyện về thân phận của một người đàn bà vùng quê nhưng đã được ánh sáng cách mạng soi rọi, thoát khỏi kiếp lạc hậu lầm than, trở thành một bà mẹ anh hùng. Kịch bản này đã đoạt giải A của Hội Nghệ sĩ sân khấu và Vụ Nghệ thuật năm 1960, liền đó có tới 9 đoàn cải lương chuyên nghiệp tỉnh và thành phố dàn dựng và nhanh chóng trở thành tiết mục đỉnh trong dàn kịch mục thường trực của các đơn vị trước những năm 1960, 1970. Sau ngày giải phóng miền Nam, Bà mẹ sông Hồngcòn được một số đoàn nghệ thuật trong Nam dàn dựng và công diễn suốt mấy năm. Kịch bản này của ông là sự thử nghiệm của cá nhân cũng là bài học cho các nhà biên kịch khác khi ông lấy tư liệu từ cuộc sống, chiến đấu của nhân dân ta lúc bấy giờ đưa vào Cải lương rất ngọt ngào.
Kịch bản thứ hai được tôn vinh trong lễ phong tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật là Nắng tháng Tám, khai thác đề tài đồng bào vùng than đấu tranh sống còn với bọn chủ mỏ, chống ách áp bức bóc lột, đòi giải phóng thân phận nô lệ… Kịch bản Nắng tháng Tám do Nhà hát Cải lương Trung ương công diễn tại Hà Nội vào dịp kỷ niệm 16 năm giải phóng Thủ đô, đồng thời nhận giải Khuyến khích của Hội Nghệ sĩ Sân khấu năm 1971. Theo dòng phát triển của cách mạng, ông tự nguyện là người chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ khi dùng ngòi bút để thể hiện những người anh hùng đời thường. Cũng với kịch bản Bà mẹ sông Hồng, Nắng tháng Tám, tác giả Hoàng Luyện đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2017.
Năm 2021, vở diễn Cây gậy thần (còn có tên gọi Thiên duyên huyền tích) được lựa chọn để dàn dựng trong dự án Huyền sử Việt với sự kết hợp độc đáo giữa nghệ thuật Xiếc và Cải lương do Bộ VHTTDL đặt hàng. Vở diễn khai thác về huyền tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung, mối thiên duyên vô tiền khoáng hậu thể hiện khát vọng tự do và hạnh phúc của con người ấy cũng đã trở thành câu chuyện thấm đẫm chất thơ, nhiều chiêm nghiệm về triết lý nhân sinh và quen thuộc trong tâm thức của biết bao thế hệ người Việt. Đây là vở diễn có những thử nghiệm rất táo bạo như kết hợp Xiếc với Cải lương, diễn trên sân khấu tròn của Xiếc, nghệ sĩ Cải lương và nghệ sĩ Xiếc cùng hợp diễn… Tác phẩm gây tranh cãi về tính Xiếc nhiều hay tính Cải lương nhiều, liệu có làm mất đi đặc trưng của Cải lương khi diễn không. Tuy nhiên, có thể khẳng định, chính câu chuyện mang màu sắc huyền tích này đã mang lại sự hấp dẫn đối với thế hệ nghệ sĩ trẻ hiện nay, chứng tỏ được giá trị của kịch bản do tác giả Hoàng Luyện sáng tạo. Những kịch bản có sức sống dài lâu của tác giả đã khẳng định tính nhân văn, tính nghệ thuật và khả năng sáng tác của ông.
Vở Cây gậy thần do tác giả Hoàng Luyện viết kịch bản được Bộ VHTTDL đặt hàng
Về nghệ thuật viết kịch của Hoàng Luyện, nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ (đã mất), một người rất nghiêm cẩn, có trách nhiệm cao trong nghề nghiệp cũng đánh giá rất tốt: “Ngòi bút của ông khi đi vào miêu tả những tình cảm mẹ - con, đôi - lứa, khi gặp - gỡ, lúc tiễn - đưa, hoặc hiểu lầm rồi nhận ra, chờ mong trông ngóng rồi trùng phùng, thường chứa đựng, đúng ra là gửi gắm những ý tứ đằm thắm gợi cảm, gây xúc động lòng người bằng những lời ca chân thành, trau chuốt. Ông còn mạnh dạn sử dụng và sử dụng khá thành công bản vọng cổ, điệu ca vốn mang tính bi luỵ cố hữu, điều mà không ít những soạn giả Cải lương đương thời còn dè dặt; như trong các lớp bà Thảo với Soan, bà Thảo với Dong (vở Bà mẹ sông Hồng); các lớp bà Mẫn với Lệ Huyền, bà Mẫn với Lý (vở Nắng tháng Tám)…. Nhìn vào ngót một chục vở dài sau gần 40 năm lăn lộn trong nghề văn, dễ có cảm giác như ông viết chậm. Thực ra, ông rất cẩn thận trong mỗi khi chọn tích, lựa chủ đề, rồi tìm cách bố cục sao cho chặt chẽ, hợp lý, để nhân vật có “đất” thăng hoa khi diễn viên tạo hình phả hồn vào. Câu chuyện “có vấn đề” được ông xới lên, lật lại, cốt bản chất nhân vật tự bộc lộ một cách cô đúc, sắc sảo, qua suy nghĩ hành động, qua câu chữ, điệu hát. … Điều chắc chắn là, bất kỳ ai viết lịch sử Cải lương những năm 60 đến 80, nhất thiết phải nhắc đến Hoàng Luyện, tác giả các vở: Bà mẹ bên sông Hồng, Nắng tháng Tám, Giấc mộng hoa đào…”
Cô con gái Xuân Hồng và con rể Lê Thế Song vẫn luôn nhắc nhớ về ông, cũng là sự tiếp nối di sản tinh thần quý báu của người cha tài năng. Cặp đôi nghệ sĩ vẫn bền bỉ nuôi dưỡng tình yêu sân khấu, gắn kết và tiếp tục tỏa sáng trong các chương trình nghệ thuật, ở nhiều vai trò như tác giả, đạo diễn, nhà tổ chức… Chắc ở miền xa mây trắng, tác giả Hoàng Luyện sẽ tự hào và yên tâm với nghề mà ông đã tâm huyết trọn cuộc đời.
NGỌC DIỆP
Nguồn: Tạp chí VHNT số 604, tháng 4-2025