• Nghệ thuật > Sân khấu biểu diễn

QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CƠ QUAN THÔNG TIN THƯ VIỆN HIỆN ĐẠI

Hiện nay, công nghệ thông tin đang có những bước phát triển không ngừng, được ứng dụng rộng rãi trong hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin đã làm thay đổi tư duy, diện mạo, phương thức hoạt động của nhiều cơ quan thông tin thư viện (TTTV). Một trong những hoạt động đầu tiên của sự biến đổi đó phải kể đến vấn đề quản lý nguồn nhân lực (NNL). Tuy nhiên, đại đa số NNL thiếu những phẩm chất, kỹ năng phù hợp với cơ quan TTTV hiện đại, làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng hoạt động trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội.

ỨNG DỤNG MARKETING 7PS TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN CÔNG CỘNG

Khái niệm marketing thời gian đầu mới chỉ áp dụng trong lĩnh vực thương mại. Năm 1969, khi bài báo Marekting cho các tổ chức phi lợi nhuận của Kotler và Levy xuất hiện trong Tạp chí Marketing thì ý tưởng marketing cho các tổ chức phi lợi nhuận mới được khai phá. Trực thuộc các tổ chức phi lợi nhuận, các cơ quan thông tin - thư viện bắt đầu quan tâm đến vấn đề marketing. Lúc này, các chuyên gia thông tin - thư viện mới chỉ quan tâm tới yếu tố truyền thông marketing khi thảo luận về vấn đề này. Từ năm 1979 đến năm 1980, người ta bắt đầu cho rằng marketing thích hợp khi áp dụng vào hoạt động thông tin - thư viện. Các lý thuyết marketing truyền thống trở nên hữu dụng cho các tổ chức phi lợi nhuận, trong đó có các thư viện công cộng (TVCC).

HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ ĐỐI VỚI NGHỆ THUẬT XIẾC

Hiện nay, vấn đề marketing cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học, bài báo… trong đó nhấn mạnh đến hoạt động phát triển khán giả. Thực chất, đó là việc xác định các nhóm đối tượng mục tiêu cho mỗi loại hình nghệ thuật. Ví dụ, khán giả mục tiêu của nghệ thuật múa rối, xiếc là thiếu nhi, còn đối với tuồng, chèo, cải lương là khán giả lứa tuổi trung niên... Như vậy, phát triển khán giả gồm hoạt động nghiên cứu nhu cầu khán giả mục tiêu, cung cấp các sản phẩm nghệ thuật, xác định giá vé, địa điểm biểu diễn cũng như hình thức truyền thông marketing phù hợp.

TÔI MƠ MỘT NHÀ HÁT CHÈO MANG TÍNH VIỆN

Thành lập từ năm 1951, đến nay Nhà hát Chèo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong cả lĩnh vực biểu diễn và nghiên cứu. Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập, chúng tôi có thực hiện cuộc phỏng vấn với GS NSND Trần Bảng, nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam. Ông được biết đến là đạo diễn, soạn giả, nhà nghiên cứu nghệ thuật chèo nổi tiếng ở nước ta, những đóng góp của ông được nhà nước, công chúng nhiều thế hệ công nhận. Những chuyện nghề, chuyện nhà hát được ông chia sẻ đầy say sưa, nồng hậu.

NGHĨ VỀ VIỆC BẢO TỒN NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC VIỆT NAM

Tháng 3 - 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập ngành rối Việt Nam mà đơn vị xương sống chính là Nhà hát múa rối Việt Nam. Mong muốn của Người là “cần có đoàn múa rối chuyên nghiệp để các cháu thiếu nhi thêm niềm vui, thêm tiếng cười” (1). 60 năm, một chặng đường đủ dài song hành cùng lịch sử dân tộc đã cho thấy vai trò của nghệ thuật múa rối trong việc làm phong phú đời sống tinh thần của các thế hệ khán giả cả nuớc. Ngành rối không chỉ bảo tồn, phát huy các giá trị cốt lõi của nghệ thuật múa rối nước dân gian mà còn xây dựng, phát triển sân khấu múa rối cạn, tiệm cận với nghệ thuật múa rối trên thế giới.

HIỆN TƯỢNG TÁI TẠO VÀ PHÓNG TÁC THỦY HỬ THỜI KỲ KHÁNG NHẬT Ở TRUNG QUỐC

Soi chiếu vào thực tại đất nước Trung Quốc thì thấy tình hình chính trị thời kỳ kháng Nhật (1937 - 1945) hết sức phức tạp. Hai phe nội chiến trong nước là Quốc dân Đảng và Cộng sản Đảng đã không cùng hợp tác chống Nhật mà mỗi bên lại mưu tính những kế sách có lợi cho riêng mình. Đất nước tạm chia thành hai chiến khu là Quốc thống (Cộng sản Đảng) và Giải phóng (Quốc dân Đảng). Cũng bởi thế, các tác phẩm kịch cải biên từ tiểu thuyết chương hồi Thủy hử của Thi Nại Am (TK XIV) tất yếu đi theo hai ngã rẽ, đồng thời tạo nên hai xu thế tiếp nhận kịch Thủy hử khác nhau. Bên Quốc thống khu chủ yếu tiếp nhận Thủy hử thông qua các nguồn truyện phóng tác từ Thủy hử hoặc tiểu thuyết tục thư còn bên Giải phóng khu tiếp nhận qua các vở kịch cải biên.

BẢN DỊCH KỊCH NHƯ MỘT THỂ ĐỘNG TRONG ĐA HỆ THỐNG

Trong nhiều chuyên luận, các chuyên gia về kịch như: Patrice Pavis, Pierre Larthomas, JeanPierre Ryngaert, Michel Pruner, Michel Vinaver, Anne Ubersfeld, Alain Couprie… thường băn khoăn về vấn đề làm thế nào để chuyển dịch một văn bản kịch. Một cuộc hội thảo mang tên Traduire le Théâtre aujourd’hui cũng đã bàn về các vấn đề dịch sân khấu hiện nay (1). Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn bản dịch tiếng Việt vở Trong khi chờ Godot làm nghiên cứu trường hợp cho việc xem xét các lý thuyết về dịch văn học nói chung và dịch kịch nói riêng. Đây là vở kịch có vị trí quan trọng trong sự nghiệp của nhà văn đạt giải Nobel Samuel Beckett, được tác giả tự dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Anh, ở Việt Nam có ba bản dịch cho vở kịch này.

NGHỀ LÀM TRANG PHỤC CẢI LƯƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Cải lương là loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống được nhiều thế hệ công chúng cả nước nói chung, TP.HCM nói riêng ái mộ, trân quý. Thế nhưng, trong vài thập niên trở lại đây, nhịp độ phát triển năng động của thành phố dường như bỏ lại sau lưng loại hình nghệ thuật vốn dĩ hình thành và phát triển từ lâu đời tại vùng đất này. Nghề làm trang phục cải lương tồn tại song hành với bộ môn cải lương cũng dần mai một. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến trang phục cải lương cổ. Đó là loại hình trang phục sân khấu dành riêng cho nghệ sĩ khi sắm tuồng, đáp ứng yêu cầu của vở cải lương cổ, tái hiện không gian, thời gian, lịch sử, tính cách nhân vật trong cốt truyện xưa.